Sử dụng Bảo tàng Mĩ thuật Việt Nam trong dạy học Lịch sử ở Trường Trung học Phổ thông
Bạn đang xem nội dung tài liệu Sử dụng Bảo tàng Mĩ thuật Việt Nam trong dạy học Lịch sử ở Trường Trung học Phổ thông, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Sử dụng Bảo tàng Mĩ thuật Việt Nam
trong dạy học Lịch sử ở trường trung học phổ thông
HOÀNG THANH TÚ- Trường Đại học Giáo dục – ĐHQG Hà Nội
CHU NGỌC QUỲNH- trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2
Tóm tắt: Bảo tàng không chỉ là nơi lưu giữ bằng chứng lịch sử của một quốc gia,
dân tộc mà còn là một môi trường học tập bổ ích dành cho học sinh. Các hiện vật, tranh
ảnh trưng bày tại bảo tàng là minh chứng sống động góp phần giúp HS tìm hiểu, khám
phá lịch sử.Mỗi bảo tàng có nội dung trưng bày khác nhau nên có ưu thế riêng trong việc
dạy và học LS. Trong đó, Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam là nơi trưng bày, giới thiệu các
tác phẩm nghệ thuật, hội họa tiêu biểu của dân tộc. Trên cơ sở phân tích vai trò của Bảo
tàng Mỹ thuật Việt Nam, khảo sát thực trạng sử dụng Bảo tàng này trong dạy học lịch sử
ở trường THPT, bài viết đề xuất những định hướng cho việc sử dụng Bảo tàng Mỹ thuật
Việt Nam trong dạy học Lịch sử Việt Nam từ nguồn gốc đến giữa thế kỉ XIX và kết quả
bước đầu của việc tiến hành thử nghiệm sư phạm tại trường THPT Trung Giã (Sóc Sơn,
Hà Nội).
Từ khoá: Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam, dạy học lịch sử
Mở đầu
Bảo tàng không chỉ là nơi lưu giữ bằng chứng lịch sử của một quốc gia, dân tộc
mà còn là một môi trường học tập bổ ích dành cho học sinh (HS). Các hiện vật, tranh
ảnh trưng bày tại bảo tàng là minh chứng sống động góp phần giúp HS tìm hiểu, khám
phá lịch sử (LS).
Mỗi bảo tàng có nội dung trưng bày khác nhau nên có ưu thế riêng trong việc dạy
và học LS. Trong đó, Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam (MTVN) là nơi trưng bày, giới thiệu
các tác phẩm nghệ thuật, hội họa tiêu biểu của dân tộc. Đây là nơi khẳng định đặc điểm,
tinh thần, tư tưởng và quan niệm của nền mỹ thuật Việt Nam. Thông qua các tác phẩm
nghệ thuật đó, HS có thể tìm hiểu về nhân vật LS, các sự kiện, hiện tượng LS từ cội
nguồn đến thời kì xây dựng và bảo vệ đất nước. Bởi mỗi tác phẩm mỹ thuật từ ngàn xưa
đến nay là những bức tranh thu nhỏ chứa đựng giá trị LS với phong cách đậm đà bản sắc
dân tộc.
1. Vai trò của Bảo tàng MTVN trong dạy học Lịch sử
Bảo tàng MTVN sưu tầm và bảo quản trên 18.000 tài liệu, hiện vật thể hiện qua
các chuyên đề: mỹ thuật thời Tiền – Sơ sử; mỹ thuật từ thế kỷ XI đến thế kỷ XIX (mỹ
thuật thời Lý – Trần, mỹ thuật thời kỳ Lê Sơ – Mạc – Lê Trung Hưng, mỹ thuật thời Tây
1 Sơn – thời Nguyễn); mỹ thuật đương đại, mỹ thuật ứng dụng; mỹ thuật dân gian; gốm
nghệ thuật Việt Nam từ thế kỷ XI đến thế kỉ XX. Với nội dung trưng bày mạch lạc, khúc
triết theo trục dọc thời gian của LS mỹ thuật và đa dạng loại hình, chất liệu như gốm,
tranh sơn mài, sơn dầu, lụa, giấy Bảo tàng MTVN có ưu thế đặc biệt trong việc giúp HS
từ việc cảm thụđược nét đẹp, nét đặc sắc của những tác phẩm nghệ thuật Việt Nam tiêu
biểu đến việc hiểu, phân tích và khám phá nội dung LS được thể hiện qua các tác phẩm
nghệ thuật đó.Như vậy, các tư liệu, hiện vật trưng bày tại Bảo tàng MTVN giúp cho HS
có cái nhìn toàn diện nhất về sự phát triển của nền mỹ thuật nước nhà và nâng cao hiểu
biết về LS văn hóa của dân tộc. Nền mỹ thuật đó mặc dù chịu ảnh hưởng của một số nền
văn hóa xung quanh ở một vài yếu tố và trong những thời kì nhất định, nhưng phong cách
sáng tạo cũng như nội dung LS được phản chiếu trong đó hoàn toàn mang tinh thần, tư
duy của người Việt Nam, tạo nên một bức tranh toàn cảnh đậm bản sắc dân tộc.
Dựa trên cơ sở quan sát tài liệu, hiện vật của bảo tàng, tham gia các hoạt động học
tập, HS được rèn luyện các kĩ năng quan sát, miêu tả, thuyết trình, thảo luận, sưu tầm –
xử lý thông tin, làm việc nhóm... Từ đó, HS học cách tư duy của nhà sử học thông qua
việc phân tích, tổng hợp thông tin từ các tư liệu và rút ra nhận xét, kết luận về bản chất
của các sự kiện, hiện tượng LS, lý giải mối liên hệ giữa các sự kiện, hiện tượng đó, tạo
hứng thú học tập LS.
Ví dụ: thời kì nguyên thủy là thời kì LS cách rất xa thời đại mà HS đang sinh
sống, do đó để có cái nhìn sống động và chân thực hơn về đời sống tinh thần của người
nguyên thủy trên đất nước ta ở thời kì này, GV có thể giới thiệu cho HS quan sáthìnhkhắc
mặt người ở vách đá hang Đồng Nội (Đồng Tâm, Lạc Thủy, Hòa Bình)đang được trưng
bày tại Bảo tàng MTVN. GV có thể đặt câu hỏi yêu cầu HSquan sát, miêu tảnhư: “Trên
vách đá hang Đồng Nội có bao nhiêu hình khắc? Đó là những hình gì?”. Sau đó, HS liên
hệ với kiến thức đã được học để trao đổi, thảo luận các vấn đề: “Chữ Y được khắc trên
đầu của ba hình mặt người tượng trưng cho điều gì? Tại sao người nguyên thủy lại khắc
hình đó?; Em có nhận xét gì về tư duy hình tượng và nghệ thuật của cư dân thuộc văn
hóa Hòa Bình?”. Từ những nhiệm vụ học tập trên, HS không chỉ hiểu hơn cuộc sống con
người thời kì này mà còn hình dung về thẩm mĩ của con người và cuộc sống, tín ngưỡng
nguyên thủy xa xưa.
Đối với Bảo tàng MTVN, với phong cách trưng bày độc đáo các tác phẩm nghệ
thuật theo từng thời kì LS còn giúp HS cảm thụ và hiểu được trong suốt chiều dài LS,
dân tộc ta đã tạo nên một nền mỹ thuật phong phú, đa dạng. Mặc dù mỗi lần đất nước bị
xâm lăng là một lần nền văn hóa dân tộc bị thử thách, tàn phá nhưng cho đến nay, nền
văn hóa nghệ thuật đó không những không bị đồng hóa mà bản sắc dân tộc càng được
khẳng định hơn. Bên cạnh đó, mỗi tác phẩm nghệ thuật, mỗi bức tranh trưng bày tại Bảo
tàng MTVN đều mang trong đó những thông điệp, không chỉ chứa đựng thông điệp LS
2 mà còn làcảm xúc, tâm tư, nguyện vọng, sự sáng tạo, sự hi sinh gian khổ của những
người nghệ sĩ đương thời mà HS cần trân trọng, giữ gìn và phát huy.
2. Vài nét về thực trạng sử dụng Bảo tàng MTVN trong dạy học Lịch sử
Khảo sát được tiến hành với 20 GV và 378 HS ở4 trườngTHPT thuộc Hà Nội
gồm: THPT Tây Hồ, THPT Kim Liên,THPT Trung Giã (Sóc Sơn), THPT Sơn Tây và
các trường THPT Ninh Giang (Hải Dương), THPT Tây Tiền Hải (Thái Bình) và là cơ sở
phác hoạ vài nét về thực trạng sử dụng Bảo tàng MTVN trong dạy học Lịch sử.
Thực tế cho thấy bảo tàng là lựa chọn thích hợp để tổ chức hoạt động ngoại khóa
cũng như hoạt động trải nghiệm sáng tạo cho HS, nhưng phần lớný kiến GV cho biết
chưa từng sử dụng bảo tàngđể tổ chức các hoạt động này (chiếm 80%). Do trong quá
trình tổ chức GV còn gặpnhiều khó khăn như: thời gian, kinh phí,sự hợp tác, phối hợp
nhiệt tình và trách nhiệm của các GV trong tổ bộ môn, đặc biệt là khó khăn trong
việcthiết kế, xây dựng chương trình hoạt động có thể thu hút sự tham gia của HS. Tại bảo
tàng nói chung và Bảo tàng MTVN nói riêng, HS chủ yếu được tham quan hoặc nghe kể
chuyện còn các hoạt động khác như văn nghệ, trò chơi LS, xem phim, sân khấu hóa, sưu
tầm, tìm hiểu và khám phá các hiện vật còn rất hạn chế, cụ thể được thể hiện trong
biểu đồ 1 dưới đây:
Biểu đồ 1: Các hoạt động ngoại khóa Lịch sử HS đã từng
được tham gia tại bảo tàng (%)
70 63.5
60 52
50
40 28.5
26 37
21
30
18.5 15.5
20
10
0
Tham Xem Nghe kể Thảo Tìm hiểu Tham gia Văn nghệ Phòng
quan phim chuyện luận hiện vật trò chơi khám
phá
Mặc dù để hiểu được nội dung LS được phản ánh qua mỗi bức tranh hay tác phẩm
nghệ thuật điêu khắc, tạo hình là điều không dễ dàng nhưng tất cả ý kiến GV (chiếm
100%) và ý kiến HS (chiếm 80.5%) cho biết có thể tìm hiểu sự kiện, hiện tượng hay
những vấn đề LS thông qua các tư liệu, hiện vật đang được trưng bày tại Bảo tàng
MTVN. Cụ thể: khi được hỏi nội dungLS nào được phản ánh qua tác phẩm nghệ
thuật“Hình thuyền trên tang trống đồng NgọcLũ” (thuộc văn hóa thời kì Tiền sử - Sơ sử
của Việt Nam) đa số HS đều trả lời được hiện vật phản ánh“đời sống vật chất và tinh
thần của cư dân Việt cổ”. Đối với bức tranh “Trái tim và nòng súng” (họa sĩ Huỳnh Văn
3 Gấm)HS cho là đã thể hiện “tinh thần chiến đấu của nhân dân Việt Nam, tiêu biểu là
người phụ nữ. Đồng thời, thể hiện sự tàn ác của chiến tranh, của bọn xâm lược ”.Có
thể thấy, GV và HS đều cảm nhận được mỗi bức tranh hay tác phẩm nghệ thuật điêu
khắc, tạo hình đều chứa đựng những giá trị vật chất, tinh thần, là bức tranh “thu nhỏ”
phản ánh một sự kiện hay một vấn đề LS.
Đánh giá về mức độ hiệu quả của việc sử dụng hiện vật của Bảo tàng MTVN
trong dạy và họcLS, ý kiến của HS nhưsau:
4 Bảng 1: Ý kiến đánh giá của HS về mức độ hiệu quả của việc sử dụng Bảo tàng
MTVN trong học tập LS (%)
Mức độ đánh giá
Tiêu chí
Rất hiệu Bình Ít hiệu Không
đánh giá Hiệu quả
quả thường quả hiệu quả
Tạo biểu tượng về nhân vật 37.6 43.4 30.2 3.9 1.8
LS
Nhớ và hiểu bản chất của 35 43.2 30.2 6.5 1.5
sự kiện, hiện tượng LS.
Phát triển kĩ năng tư duy, kĩ 36.4 37.4 21.3 7.3 0.5
năng thực hành.
Bồi dưỡng tình cảm yêu 47.6 40.2 21.8 5.9 4.1
mến, trân trọng giá trị LS.
Tuy nhiên, nhiều GV (60 % ý kiến) và HS (83.9% ý kiến) chưa bao giờ đến Bảo
tàng MTVN, cho dù là đến với mục đích giải trí, vui chơi cũng chiếm tỉ lệ rất thấp. Như
vậy, qua nghiên cứu thực tiễn cho thấy, Bảo tàng MTVN - một trong những bảo tàng
Quốc gia bảo tồn và tôn vinh những giá trị thẩm mĩ đặc sắc và tinh hoa của dân tộc mà
GV hoàn toàn có thể khai thác để sử dụng trong dạy và học LS vẫn chưa được sử dụng
đúng với vai trò và ý nghĩa của nó.
3. Sử dụng Bảo tàng MTVN trong dạy học Lịch sử Việt Nam từ nguồn gốc đến giữa
thế kỉ XIX
Lịch sử Việt Nam từ nguồn gốc đến giữa thế kỉ XIX là thời kì hình thành nên
những truyền thống tốt đẹp của dân tộc như truyền thống yêu nước, truyền thống đoàn
kết, cần cù, chăm chỉ và cũng là thời kì nền văn hóa dân tộc được hình thành, phát triển,
đạt được những thành tựu rực rỡ còn được bảo lưu cho đến nay. Do đó, GV có thể sử
dụng Bảo tàng MTVN theo các hướng sau:
Tổ chức hoạt động trải nghiệm sáng tạo
Tại bảo tàng, GV có thể kết hợp linh hoạt các phương pháp và hình thức tổ chức
cho HS như tham quan, đóng vai hướng dẫn viên bảo tàng; tổ chức Hội thi/Cuộc thi như:
thi vẽ, thi thời trang, thi chụp ảnh, thi kể chuyện theo tranh, hội thi học sinh thanh lịch ;
tổ chức sự kiện như: các buổi triển lãm, hội diễn nghệ thuật, chuyến đi khám phá văn hóa
đất nước; tổ chức hoạt động giao lưu với những nhân vật điển hình thuộc lĩnh vực văn
5 hóa, nghệ thuật; tổ chức diễn đàn tạo môi trường cho HS được bày tỏ ý kiến về những
vấn đề các em quan tâm.
Ví dụ: “con Nghê” là một sáng tạo mang nhiều ý nghĩa tâm linh của người Việt,
nó khác với Lân – một vật linh trong văn hóa Trung Quốc. Mặc dù Nghê thấy ở khắp nơi,
từ đền chùa, miếu mạo cho đến nhà ở của nhiều gia đình, nhưng không nhiều HS quan
tâm và hiểu được ý nghĩa của vật linh này đối với đời sống tâm linh của dân tộc. Do đó,
GV có thể sử dụng các hiện vật về Nghê, cùng với các tư liệu đang được lưu trữ tại Bảo
tàng MTVN để tổ chức Chương trình Tọa đàm “Nghê - Một biểu tượng tạo hình thuần
Việt” vớichủ đề Tìm hiểu về nghệ thuật tạo hình trong văn hóa dân gian Việt
Nam.Chương trình này bao gồm các hoạt động như: Tham quan bảo tàng; Trao đổi, thảo
luận với diễn giả về ý nghĩa, vị trí, vai trò cũng như cách phân loại hình dáng, chất liệu
tạo hình Nghê của người Việt; tiếp theo, các nhóm HS thi làm mặt nạ hình Nghê vui
Trung thu bằng giấy bồi dưới sự hướng dẫn của GV và nhân viên bảo tàng. Thông qua
các hoạt động trên, HS được khám phá, trải nghiệm sâu sắc với các hiện vật của Bảo tàng
để tìm hiểu về một vấn đề có ý nghĩa tâm linh đối với dân tộc Việt Nam mà các em chưa
có điều kiện tiếp cận nhiều trong chương trình nội khóa.
Sử dụng tư liệu bảo tàng để tổ chức dạy học tích hợp
Trong dạy học LS có thể tích hợp nội dung kiến thức của nhiều môn học khác
nhau như Ngữ văn, Địa lý, Giáo dục công dân, Giáo dục Quốc phòng – An ninh, Sinh
học, Âm nhạc và Mĩ thuật Việc sử dụng tư liệu của Bảo tàng MTVN để tiến hành dạy
học tích hợp với nội dung kiến thức LS trong chương trình góp phần giúp HS hình thành
năng lực thẩm mĩ, sáng tạo nghệ thuật. Ví dụ: Để dạy học bài 14 “Các quốc gia cổ đại
trên đất nước Việt Nam”, GV có thể khai thác, sử dụng các hiện vật như: họa tiết hoa văn
trang trí trên mặt trống đồng Ngọc Lũ, Hữu Chung, Miếu Môn; các con giống, các loại
đồ đựng bằng gốm, đồ trang sức của phụ nữ, một số loại hình công cụ lao động sản xuất
và vũ khí, bức tranh “Ngày hội mùa của cư dân nông nghiệp” để hướng dẫn HS tìm
hiểu kiến thức LS. Bên cạnh đó, GV có thể xây dựng các chủ đề tích hợp, ví dụ chủ đề
“Hình tượng rồng qua các triều đại Lý – Trần – Lê” thông qua các tác phẩm nghệ thuật
tại Bảo tàng MTVN. Qua học chủ đề này HS có thể khái quát và nhận xét được tình hình
phát triển kinh tế và sự chuyển biến trong xã hội của mỗi triều đại sẽ tác động đến các
lĩnh vực, trong đó có nghệ thuật, từ đó mà hình tượng rồng được thể hiện với phong cách
khác nhau, mang những ý nghĩa riêng biệt. Chủ đề có thể triển khai với các nhiệm vụ
dành cho HS như sau: Nhóm 1: Thiết kế một cuốn truyện tranh giới thiệu về hình tượng
Rồng thời Lý; Nhóm 2:Xây dựng một đoạn phim tư liệu giới thiệu về hình tượng Rồng
thời Trần; Nhóm 3:Thiết kế một ấn phẩm quảng bá về hình tượng Rồng thời Lê với bạn
bè quốc tế. Như vậy, HS được khám phá lịch sử dân tộc dưới một góc nhìn mới: góc nhìn
từ nghệ thuật.
6 Sử dụng tư liệu bảo tàng để tổ chức dạy học dự án
Dạy học theo dự án giúp cho HS có ý thức tích cực, chủ động và có trách nhiệm
hơn đối với môn học. Vì vậy, GV có thể sử dụng tư liệu của Bảo tàng MTVN để tổ chức
các dự án học tập ở trên lớp học như hội thi/cuộc thi mô phỏng các chương trình Game
show trên truyền hình thực tế, triển lãm tranh ảnh, hội họa
Ví dụ: chương trình “Tìm kiếm tài năng Việt Nam”với chủ đề Những dấu tích về
con người và nhà nước đầu tiên trên lãnh thổ Việt Nam. Chủ đề này bao gồm nội dung
của 2 bài trong chương trình Lịch sử 10: bài 13 - Việt Nam thời nguyên thủy; bài 14 -
Các quốc gia cổ đại trên đất nước Việt Nam. Với dự án này, HS được tham gia đóng vai
là Ban tổ chức chương trình, nhà báo, phóng viên, MC chương trình và các Đội từ mọi
miền đất nước đến dự thi ứng dụng công nghệ thông tin để thiết kế, tổ chức các trò chơi
LS, cụ thể: Đội 1 thiết kế trò chơi “Giải mã ẩn số trống Đông Sơn” bằng các ô chữ,
mảnh ghép họa tiết trang trí trên mặt trống đồng nhằm tìm hiểu về giá trị nghệ thuật và
giá trị LS của trống đồng Đông Sơn; Đội 2 thiết kế trò chơi “Mê cung Lịch sử” mà mỗi
khúc ngoặt trong mê cung đó là một câu hỏi tìm hiểu về công cụ lao động của người Việt
cổ; Đội 3 thiết kế trò chơi “Theo dòng Lịch sử” với những mảnh ghép và yêu cầu HS
phải quan sát ảnh gốc để phục dựng lại bức tranh về các tập tục, tín ngưỡng của cư dân
Văn Lang – Âu Lạc, Cham-pa và Phù Nam. Các hoạt động trên nhằm giúp HS trả lời câu
hỏi của chương trình: “Người Việt cổ đã sống như thế nào?”. Như vậy, sử dụng tư liệu
của bảo tàng nói chung và Bảo tàng MTVN nói riêng trong dạy học dự án không chỉ giúp
HS hình thành các năng lực thực hành LS mà còn hướng các em bước đầu hình thành ý
thức coi trọng tư liệu và biết cách phê phán, sử dụng tư liệu hiện vật phục vụ mục đích
học tập LS.
Để kiểm nghiệm, đánh giá ưu điểm, hạn chế cũng như những thuận lợi và khó
khăn khi triển khai các biện pháp đề xuất trong đề tài vào thực tiễn dạy học LS ở trường
THPT, dự án “Tìm kiếm tài năng Việt Nam” chochủ đề Những dấu tích về con người và
Nhà nước đầu tiên trên lãnh thổ Việt Namđược tiến hành thử nghiệm tại trường THPT
Trung Giã (Sóc Sơn, Hà Nội), kết quả thu được như sau:
7 Biểu đồ 2: Tổng hợp mức độ hứng thú của HS đối với
các hoạt động trong dự án (%)
60 53.5
50
37.2
40
30
20
7.0
10 2.3
0
Rất thích Thích Bình thường Không thích
Bảng 2: Ý kiến đánh giá của HS về sựphù hợp của các hoạt động trong dự án “Tìm
kiếm tài năng Việt Nam” (%)
Tiêu chí đánh giá
Điều kiện Khả năng tổ Khả năng thực
Hoạt động Mục tiêu
triển khai chức của GV hiện của HS
Phần thi Chào hỏi 34.9 34.9 34.9 76.2
Trò chơi “Giải mã ẩn số 25.6 41.9 27.9 72.1
trống Đông Sơn”
Trò chơi 27.9 48.8 25.6 69.8
“Mê cung Lịch sử”
Trò chơi 41.9 32.6 27.9 72.1
“Theo dòng Lịch sử”
Kết thúc dự án 27.9 33.3 57.1 54.8
Kết quả đánh giá trên cho thấy các hoạt động của dự án tương đối phù hợp với khả
năng thực hiện của HS. Dưới sự hướng dẫn của GV, HS đã biết cách khai thác nội dung
LS từ các hiện vật của Bảo tàng MTVN để thiết kế các trò chơi vô cùng sinh động. Tuy
nhiên, do điều kiện cơ sở vật chất ở trường thử nghiệm còn thiếu, HS chưa được thực
hành ứng dụng công nghệ thông tin nhằm phục vụ mục đích học tập nhiều nên các sản
phẩm của dự án chưa phát huy được hiệu quả cao nhất.
Thông qua việc phân tích, nhận xét kết quả thử nghiệm sư phạm, có thể nhận thấy
dự án “Tìm kiếm tài năng Việt Nam” nhận được sự phản hồi tích cực từ phía GV và HS.
Đặc biệt, thông qua việc đánh giá sản phẩm các em HS chuẩn bị cho chương trình, cũng
8 như những phản hồi, đóng góp ý kiến, bước đầu thấy rằng các biện pháp sử dụng Bảo
tàng MTVN có tính khả thi, hiệu quả, tương đối phù hợp với điều kiện triển khai ở
trường THPT, đặc biệt phù hợp với khả năng tổ chức của GV và khả năng thực hiện của
HS mặc dù trong quá trình thực hiện vẫn còn gặp khó khăn nhất định như: vấn đề thời
gian tổ chức, không gian tổ chức, khai thác hiệu quả nhất tư liệu hiện vật của bảo tàng,
cũng như việc đảm bảo sự hứng thú, thu hút tất cả HS tham gia và khả năng lựa chọn tư
liệu cũng nhưtổ chức, điều khiển, hướng dẫncủa GV trong quá trình triển khai.
Kết luận
Sử dụng bảo tàng nói chung và Bảo tàng MTVN nói riêng trong dạy học LS có ý
nghĩa quan trọng trong việc hình thành và phát triển năng lực cho HS, góp phần nâng cao
chất lượng dạy và học môn LS ở trường THPT. Nguồn tư liệu, hiện vật tại Bảo tàng
MTVN đặc biệt phù hợp tổ chức các hoạt động trải nghiệm sáng tạo, dạy học theo dự án
và dạy học tích hợp cho HS. Đối với những trường ở cách xa bảo tàng, GV có thể lựa
chọn tư liệu để xây dựng “bảo tàng ảo” bằng phần mềm Photo 3D Album hoặc thiết kế
trang web hướng dẫn HS tìm hiểu, khám phá LS qua các tác phẩm nghệ thuật. Đặc biệt,
khi xây dựng kế hoạch tổ chức sử dụng Bảo tàng MTVN trong dạy học LS, GV cần đảm
bảo thực hiện mục tiêu;thiết kế các hoạt động, hình thức tổ chức đa dạng, linh hoạt, phù
hợp với từng trường, từng lớp và từng đối tượng HS; đảm bảo cho HS được vừa học vừa
chơi, phát huy tính tích cực và khả năng sáng tạo của HS. Nhờ đó, việc sử dụng bảo tàng
trong dạy học không chỉ dừng lại ở việc tìm hiểu kiến thức LS đơn thuần mà trở thành một
sân chơi bổ ích, nhẹ nhàng và lý thú.
Tài liệu tham khảo
[1]. Phạm Thị Chỉnh. Lịch sử mĩ thuật Việt Nam.NXB Đại học Sư phạm, 2013.
[2]. Vũ Quang Hiển – Hoàng Thanh Tú. Phương pháp dạy học môn Lịch sử ở trường
trung học phổ thông. NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, 2014.
[3]. Nguyễn Thị Kim Thành. Bảo tàng, di tích nơi khơi nguồn cảm hứng dạy và học
Lịch sử cho học sinh phổ thông. NXB Giáo dục Việt Nam, 2014.
[4].
USING THE VIETNAM FINE ARTS MUSEUM IN TEACHING HISTORY AT HIGH
SCHOOLS
Summary:
Museum is not only a place to collect history evidences of a nation, but it is also
considered as a useful learning environment for students. The objects, pictures
exhibited in museum are vivid evidences for students to study, explore history. Each
museum has a different exhibition and its own advantages in teaching and learning
9 history. The Vietnam Fine Arts Museum is a museum to display, introduce typical fine
arts, paintings of our nation. Basing on the analysis of the roles of The Vietnam Fine Arts
Museum, a survey of using it in teaching history at high schools, this writing proposes
some ideas for using this museum in teaching Vietnamese History from its origins to the
mid-nineteenth century and the initial results of pedagogical experiment at Trung Gia
High School (Soc Son, Ha Noi).
Key words: Vietnam fine arts museum, teaching history
10
File đính kèm:
su_dung_bao_tang_mi_thuat_viet_nam_trong_day_hoc_lich_su_o_t.docx