Tìm hiểu thực trạng giáo dục thẩm mỹ cho trẻ mẫu giáo 5 - 6 tuổi

Trong hơn nửa thế kỷ qua từ sau ngày giành độc lập, cùng với sự phát triển không ngừng về kinh tế - xã hội của đất nước, sự nghiệp giáo dục và đào tạo phát triển mạnh đạt được những thành tựu như ngày nay là sự cố gắng phấn đấu của toàn ngành giáo dục.Yếu tố cơ bản là việc định hướng đúng đắn về đường lối của Đảng và chính sách của nhà nước đối với ngành giáo dục.

Đặc biệt, trong những năm gần đây, ngành giáo dục và đào tạo đã được xã hội quan tâm và chăm lo đúng mức. Nghị quyết Trung ương khoá VIII của Ban chấp hành TW Đảng đã khẳng định: “ Thực sự coi giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu”, “Đầu tư cho giáo dục là đầu tư cho sự phát triển”

Chúng ta đang sống trong thế kỷ 21 - thế kỷ của nền văn minh trí tuệ, đòi hỏi thế hệ trẻ phải là những con người: “trí tuệ phát triển cao, giàu tính sáng tạo, giàu tính nhân văn nhưng cũng giàu cảm xúc thẩm mỹ”

Giáo dục mầm non được coi là mắt xích đầu tiên trong hệ thống giáo dục quốc dân. Mục tiêu giáo dục mầm non là giáo dục toàn diện các khả năng cho trẻ, hình thành những cơ cở đầu tiên về nhân cách con người.

Nhà giáo dục học Xô viết A.M CARENCO từng nói: “những gì mà trẻ con không có được trước 5 tuổi thì sau này rất khó hình thành và sự hình thành nhân cách ban đầu lệch lạc thì sau này giáo dục lại rất khó khăn”

Trẻ em là tương lai của đất nước, sự phồn vinh của đất nước mai sau phụ thuộc vào tất cả những gì chúng ta giành cho trẻ ngày hôm nay.

Giáo dục toàn diện cho trẻ mầm non thì giáo dục thẩm mỹ chiếm vị trí quan trọng không thể thiếu. Chân - Thiện - Mỹ là chị em sinh ba trên bước đương hoàn thiện nhân cách cho trẻ.

Nói đến giáo dục thẩm mỹ ta liên tưởng ngay đến bản sắc dân tộc, đến thuần phong mỹ tục của người Việt Nam, Giáo dục thẩm mỹ thực chất là hình thành chủ thể thẩm mỹ, để trở thành chủ thể thẩm mỹ đòi hỏi phải có thời gian và một quá trình giáo dục.

Thực tế cho thấy trong những năm gần đây giáo dục thẩm mỹ trong trường mầm non đã có những chuyển biến tích cực, đã có sự phối kết hợp của các ban ngành đoàn thể trong xã hội, quan tâm thực hiện triển khai các chuyên đề tạo hình, lồng ghép nội dung giáo dục thẩm mỹ phù hợp trong các tiết dạy: vẽ, nặn, xé, dán cho trẻ mầm non. Hàng năm, nhà trường tổ chức cho thi giáo viên giỏi, hướng dẫn chỉ đạo tốt hội thi: “bé khoẻ, bé ngoan”, “bé khéo tay” cho các cháu mẫu giáo. Đó là những việc làm tích cực mà ngành học đã đạt được.

Bên cạnh đó, ngành giáo dục mầm non còn gặp những khó khăn tồn tại như sau:

- Nhận thức của giáo viên còn hạn chế, chưa thấy rõ được vai trò trách nhiệm của mình trong việc giáo dục trẻ.

- Trong giảng dạy chưa linh hoạt vận dụng phương pháp, biện pháp phù hợp, bài dạy còn đơn điệu ít sáng tạo, chủ yếu tập trung vào một số môn học chữ cái và toán. Do đó, chưa đáp ứng được yêu cầu đổi mới của ngành học dấn đến kết quả về mặt giáo dục thẩm mỹ còn hạn chế.

 

doc18 trang | Chia sẻ: luyenbuitvga | Lượt xem: 7798 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tìm hiểu thực trạng giáo dục thẩm mỹ cho trẻ mẫu giáo 5 - 6 tuổi, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
I. Lý do chọn đề tài: Trong hơn nửa thế kỷ qua từ sau ngày giành độc lập, cùng với sự phát triển không ngừng về kinh tế - xã hội của đất nước, sự nghiệp giáo dục và đào tạo phát triển mạnh đạt được những thành tựu như ngày nay là sự cố gắng phấn đấu của toàn ngành giáo dục.Yếu tố cơ bản là việc định hướng đúng đắn về đường lối của Đảng và chính sách của nhà nước đối với ngành giáo dục. Đặc biệt, trong những năm gần đây, ngành giáo dục và đào tạo đã được xã hội quan tâm và chăm lo đúng mức. Nghị quyết Trung ương khoá VIII của Ban chấp hành TW Đảng đã khẳng định: “ Thực sự coi giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu”, “Đầu tư cho giáo dục là đầu tư cho sự phát triển” Chúng ta đang sống trong thế kỷ 21 - thế kỷ của nền văn minh trí tuệ, đòi hỏi thế hệ trẻ phải là những con người: “trí tuệ phát triển cao, giàu tính sáng tạo, giàu tính nhân văn nhưng cũng giàu cảm xúc thẩm mỹ” Giáo dục mầm non được coi là mắt xích đầu tiên trong hệ thống giáo dục quốc dân. Mục tiêu giáo dục mầm non là giáo dục toàn diện các khả năng cho trẻ, hình thành những cơ cở đầu tiên về nhân cách con người. Nhà giáo dục học Xô viết A.M CARENCO từng nói: “những gì mà trẻ con không có được trước 5 tuổi thì sau này rất khó hình thành và sự hình thành nhân cách ban đầu lệch lạc thì sau này giáo dục lại rất khó khăn” Trẻ em là tương lai của đất nước, sự phồn vinh của đất nước mai sau phụ thuộc vào tất cả những gì chúng ta giành cho trẻ ngày hôm nay. Giáo dục toàn diện cho trẻ mầm non thì giáo dục thẩm mỹ chiếm vị trí quan trọng không thể thiếu. Chân - Thiện - Mỹ là chị em sinh ba trên bước đương hoàn thiện nhân cách cho trẻ. Nói đến giáo dục thẩm mỹ ta liên tưởng ngay đến bản sắc dân tộc, đến thuần phong mỹ tục của người Việt Nam, Giáo dục thẩm mỹ thực chất là hình thành chủ thể thẩm mỹ, để trở thành chủ thể thẩm mỹ đòi hỏi phải có thời gian và một quá trình giáo dục. Thực tế cho thấy trong những năm gần đây giáo dục thẩm mỹ trong trường mầm non đã có những chuyển biến tích cực, đã có sự phối kết hợp của các ban ngành đoàn thể trong xã hội, quan tâm thực hiện triển khai các chuyên đề tạo hình, lồng ghép nội dung giáo dục thẩm mỹ phù hợp trong các tiết dạy: vẽ, nặn, xé, dán…cho trẻ mầm non. Hàng năm, nhà trường tổ chức cho thi giáo viên giỏi, hướng dẫn chỉ đạo tốt hội thi: “bé khoẻ, bé ngoan”, “bé khéo tay” cho các cháu mẫu giáo. Đó là những việc làm tích cực mà ngành học đã đạt được. Bên cạnh đó, ngành giáo dục mầm non còn gặp những khó khăn tồn tại như sau: - Nhận thức của giáo viên còn hạn chế, chưa thấy rõ được vai trò trách nhiệm của mình trong việc giáo dục trẻ. - Trong giảng dạy chưa linh hoạt vận dụng phương pháp, biện pháp phù hợp, bài dạy còn đơn điệu ít sáng tạo, chủ yếu tập trung vào một số môn học chữ cái và toán. Do đó, chưa đáp ứng được yêu cầu đổi mới của ngành học dấn đến kết quả về mặt giáo dục thẩm mỹ còn hạn chế. Thực tế trong công tác giáo dục thẩm mỹ ở trường mầm non Cẩm Sơn - Anh Sơn - Nghệ An những năm gần đây cũng đã được chú trọng hơn. Giáo dục thẩm mỹ cho trẻ được lồng ghép thông qua các hoạt động vui chơi, học tập của trẻ. Thực hiện chuyên đề đổi mới nội dung, hình thức phù hợp với độ tuổi, đặc điểm tâm sinh lý trẻ. Việc lồng ghép tích hợp giáo dục thẩm mỹ vận dụng thông qua các môn tạo hình, âm nhạc, văn học… giúp trẻ kỹ năng quan sát các sự vật, hiện tượng xung quanh, khả năng cảm thụ thiên nhiên cũng như xúc cảm trong mối quan hệ giao tiếp giữa người thân, qua giao tiếp trẻ biết cư xử đúng mực trong lời ăn tiếng nói, có hành vi ứng xử văn minh. Những buổi đầu tiên đến trường, trẻ vô cùng bỡ ngỡ, quấy khóc, sợ sệt, ngại giao tiếp với bạn bè và cô giáo. Nhưng sau một thời gian học tập cháu đã bạo dạn hơn, thích đến lớp và tham gia vào các hoạt động của lớp. Nhận thức của trẻ về mọi mặt đã được hình thành và phát triển. Cùng với sự nhận thức về các môn học như âm nhạc, toán, văn học trẻ đã có một khả năng phân biệt được cái đẹp trong cử chỉ, trong lời ăn tiếng nói, đặc biệt hơn là trẻ đã rất yêu thích cái đẹp và mong muốn tạo ra cái đẹp. Bên cạnh những thuận lợi đó, giáo dục thẩm mỹ ở nhà trường còn gặp một số khó khăn sau: -Trình độ giáo viên không đồng đề, chưa phát huy được vai trò dạy học sáng tạo, đôi khi còn dập khuôn, máy móc các hình thức, biện pháp. Do đó chưa thu hút trẻ tích cực hoạt động. - Việc bồi dưỡng kỹ năng giáo dục thẩm mỹ cho giáo viên hàng năm chưa được sâu sát và đầy đủ. - Chưa có sự phối hợp chặt chẽ giữa gia đình và nhà trường trong giáo dục thẩm mỹ, đa số phụ huynh có quan niệm đến lớp là phải học chữ, học toán. Đó là một số nguyên nhân cơ bản dẫn đến chất lượng giáo dục thẩm mỹ cho trẻ chưa cao. Là giáo viên mầm non sau khi được tiếp thu những kiến thức lý luận về giáo dục thẩm mỹ cho trẻ mẫu giáo, tôi đã nhận thức đúng đắn và sâu sắc việc giáo dục thẩm mỹ là một việc làm cần thiết và không thể thiếu ở trường mầm non, đặc biệt là trẻ mẫu giáo 5 - 6 tuổi chuẩn bị bước vào học trường phổ thông. Với khuôn khổ là một bài tập cuối khoá em đã lựa chọn đề tài : “Tìm hiểu thực trạng giáo dục thẩm mỹ cho trẻ mẫu giáo 5 - 6 tuổi” để nghiên cứu, tìm hiểu giữa lý luận và thực tiễn mình đã làm được đến đâu? đã làm được những gì trong việc giáo dục thẩm mỹ cho trẻ ở trường lớp. Từ đó có biện pháp phù hợp để vận dụng trong quá trình công tác và giảng dạy. Nhằm góp phần hình thành ở trẻ khả năng cảm thụ và sáng tạo ra cái đẹp, cũng như việc làm thay đổi nhận thức của cán bộ giáo viên trong nhà trường và các bậc phụ huynh về giáo dục thẩm mỹ theo đúng nghĩa của nó. II - Cơ sở lý luận của đề tài I. Một số quan điểm về đổi mới nội dung giáo dục mầm non 1.1. Những căn cứ để đổi mới giáo dục mầm non Sự phát triển của trẻ là một quá trình diễn ra liên tục và trải qua nhiều giai đoạn, mỗi giai đoạn là một hoạt động chủ đạo riêng và cũng tạo ra sự phát triển đặc thù của từng giai đoạn. Ngay từ khi sinh ra cho đến khi nhắm mắt xuôi tay, con người lúc nào cũng phải học: học bú, học ăn, học nói…đây là cách học thường ngày đem lại cho chúng ta tiền tri thức khoa học, hình thành cho con người những năng lực thực tiễn do kinh nghiệm mang lại. Song thực tế lại đòi hỏi những con người phải có tri thức thực sự, những năng lực thực tiễn mà phương pháp của cuộc sống hàng ngày hoàn toàn bất lực không thể tạo ra được mà chỉ phương pháp đặc thù (phương thức nhà trường) mới có khả năng tổ chức để cá nhân tiến hành một hoạt động đặc biệt gọi là hoạt động học mà qua đó hình thành ở cá nhân những tri thức khoa học, những năng lực phù hợp với đòi hỏi của thực tiễn. Vì vậy, công tác giáo dục mầm non đã góp phần vào việc xây dựng kinh tế xã hội chủ nghĩa, xây dựng một nền văn hoá mới, xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa ngay từ buổi bình minh của cuộc đời đứa trẻ. Việc đổi mới nội dung giáo dục trẻ mầm non phải đảm bảo cho đứa trẻ thực sự tham gia vào các hoạt động và hoạt động tích cực. Từ đó phát triển nhân cách cho trẻ. Từ những việc tổ chức hoạt động thu hút trẻ tham gia như : múa hát, kể chuyện, đọc thơ, vẽ, nặn… kích thích sự tò mò khám phá của trẻ. Muốn vậy, đứa trẻ phải được xem xét như một nhân cách trọn vẹn, việc giáo dục nhân cách phải dựa vào đặc điểm tâm sinh lý lứa tuổi, vào điều kiện, hoàn cảnh và môi trường sống của trẻ. Để thực hiện được nhiệm vụ đổi mới nội dung chăm sóc giáo dục trẻ. Giáo dục mầm non cần có những chuyển biến mới về chất lượng đổi mới trong sự đổi mới chung của ngành giáo dục đào taọ, nhằm khắc phục những tồn tại mà giáo dục mầm non chưa đáp ứng kịp theo sự đổi mới của công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước. Xu thế phấn đấu của ngành học mầm non đến năm 2010: - Mở rộng quy mô nhà trẻ - mẫu giáo ở những nơi có nhu cầu và điều kiện. - Tăng cường cơ sở vật chất, nâng cao chất lượng giáo dục và chăm sóc trẻ em tại các trường dân lập, quốc lập, tư thục, nhóm trẻ gia đình … nhằm phát triển tốt thể lực, trí tuệ và tình cảm thẩm mỹ cho trẻ. 2.1/ Nhu cầu của các trường mầm non đối với việc đổi mới nội dung giáo dục trẻ. Trong những năm gần đây, việc đổi mới giáo dục toàn diện đã được nhiều người quan tâm. Những nhân tố mới trong giáo dục đã xuất hiện và làm tiền đề cho sự phát triển tiếp theo của ngành giáo dục. Đối với ngành học mầm non để thực hiện được việc đổi mới nội dung, phương pháp, hình thức dạy trẻ thì trước tiên nhà sư phạm cần nắm được đặc điểm tâm sinh lý của trẻ, từ đó vận dụng nội dung, phương pháp dạy học đảm bảo tính vừa sức cho trẻ. Dạy học ở đây được hiểu theo nghĩa rộng, không bó hẹp trong nhóm lớp mẫu giáo, trẻ học ở đây bao gồm: học ăn, học nói, học đi, học chào hỏi, học quan sát sự vật, hiện tượng xung quanh. ở đây các cô được ví như người trồng cây, phải tạo dựng cho được những mầm non khoẻ mạnh về thể chất và tinh thần vững bước vào cuộc sống, làm chủ tương lai đất nước. Chủ nghĩa Mác - Lênin đã khẳng định : “con người mới không phải tự có sẵn mà thông qua nuôi dưỡng, giáo dục, rèn luyện đấu tranh trong thực tiễn mà hình thành” Như vậy, ngay từ lứa tuổi này, dạy và giáo dục đóng một vai trò quan trọng trong tâm lý của trẻ, hình thành nhân cách đâù tiên của con người. Chúng ta biết rằng trẻ em ngày nay rất thông minh, nhanh nhẹn khoẻ mạnh bởi: - Chế độ dinh dưỡng chăm sóc sức khoẻ cho các bà mẹ, trẻ em được chăm sóc theo khoa học, thường xuyên được caỉ thiện cùng với sự phát triển của đất nước. - Giao lưu được mở rộng tạo điều kiện cho trao đổi vốn gen giữa quần thể người. - Hình thức tổ chức nội dung, phương pháp giáo dục được đổi mới. - Chất lượng giáo dục được tăng lên, đặc biệt ở trẻ em hiện nay a. Sự phát triển cơ thể trẻ: Sự phát triển cơ thể trẻ ở độ tuổi mầm non tăng rất nhanh thể hiện: - Tăng kích cỡ cơ thể - Phát triển trí tuệ sớm - Vốn từ của trẻ tăng nhanh Qua quá trình nghiên cứu khoa học về trẻ em cho thấy: Cân nặng của trẻ 6 tuổi đo vào năm 1970 chỉ bằng cân nặng của trẻ 4 - 5 tuổi đo vào năm 1996 và bằng 4 tuổi đo vào năm 2004 (theo kết quả nghiên cứu “đặc điểm phát triển thể lực của trẻ dưới 6 tuổi 2004” của Hàn Kim Chi). Tuy nhiên, hiện tượng này diễn ra không đều so với các vùng miền trên cả nước. Cơ thể của trẻ ở lứa tuổi mầm non còn non nớt và nhạy cảm với tác động của môi trường : thời tiết, dịch bệnh… do sức đề kháng của trẻ còn rất yếu nên hay mắc một số bệnh truyền nhiễm : ho gà, bạch hầu, uốn ván, sởi, bại liệt… và một số các bệnh về đường hô hấp, tiêu hoá do vệ sinh kém có ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát triển cơ thể và trí tuệ của trẻ. Trẻ càng lớn thì khả năng vận động khéo léo càng thành thạo hơn, độc lập hơn. Sự phối hợp nhịp nhàng và vận dụng sức mạnh tốt hơn. Lứa tuổi này cần hình thành cả vận động thô và tinh khéo, việc hình thành phụ thuộc vào quá trình rèn luyện của trẻ. Như vậy, khi thiết kế chương trình chăm sóc giáo dục thể lực cho trẻ, cần chú ý đến nội dung bảo vệ sức khoẻ, phòng chống suy dinh dưỡng và việc rèn luyện tăng cường thể lực cho trẻ. b. Phát triển tâm lý Từ khi lọt lòng đến 12 tháng trẻ có những nhu cầu cầu cần được thỏa mãn để phát triển, đó là nhu cầu dinh dưỡng, nhu cầu gắn bó, nhu cầu vận động, tiếp nhận những ấn tượng từ thế giới xung quanh và nhu cầu giao tiếp vơí mọi người được xuất hiện sau cùng. Trẻ ở giai đoạn này phù hợp hoàn toàn vào người lớn, do đó giao tiếp với người lớn là nhu cầu cần thiết, người lớn là cầu nối giữa trẻ với thế giới đồ vật. Hoạt động chủ đạo ở giai đoạn này là giao tiếp xúc cảm trực tiếp với người. Chúng muốn người lớn chơi với chúng, giúp chúng tiếp xúc với đồ vật để tiếp nhận thế giới xung quanh. Trong thời đại công nghiệp nhu cầu gắn bó với người thân, với cha mẹ bị hạn chế. Vì vậy, trong chăm sóc cần chú ý đến đặc điểm đó nhằm thoả mãn nhu cầu của chúng. Quá trình giao tiếp với người lớn tiền đề đầu tiên của ngôn ngữ xuất hiện, trẻ bắt đầu hiểu lời nói của người lớn, vấn đề tập nói và luyện phát âm cho trẻ ở giai đoạn này rất quan trọng. Cùng với quá trình này việc cầm nắm và thao tác bằng tay với đồ vật và nhận biết các thuộc tính khác nhau của đồ vật, trí khôn của trẻ bắt đầu được phát triển. Qua giao tiếp trực tiếp với người lớn trẻ bắt đầu nắm được các hành vi của người, tạo tiền đề hình thành chức năng tâm lý cho trẻ. Từ 12 đến 36 tháng hoạt động chủ đạo của trẻ là hoạt động với đồ vật, nhờ đó trẻ khám phá các thuộc tính, nắm được chức năng, phương thức sử dụng đồ vật theo kiểu người lớn. Đây là một bước phát triển mới và là nội dung quan trọng trong tiến trình làm người của trẻ. Đứa trẻ được coi như “một nhà hoạt động thực tiễn” hay “một nhà thực nghiệm” Sự kiện biết đi có ảnh hưởng lớn đến sự phát triển tâm lý của trẻ, trẻ bước sang thời kỳ tiếp xúc với thế giới bên ngoài độc lập tự do hơn, hình thức giao tiếp với người lớn đã thay đổi, thế giới đồ vật trở thành đối tượng nhận thức của trẻ. Nhu cầu ham hiểu biết được phát triển mạnh Cuối tuổi nhà trẻ “cái tôi” bắt đầu xuất hiện, đó là dấu hiệu đầu tiên khởi đầu hình thành nhân cách. Trẻ lên 3 tuổi trở nên độc lập, muốn tự làm lấy mọi việc, trẻ hiểu sơ đẳng những hành vi đạo đức trong xã hội. Lứa tuổi mẫu giáo 3 đến 6 tuổi vui chơi ảnh hưởng đến toàn bộ đời sống tâm lý của trẻ, tạo sự biến đổi về chất trong cấu trúc tâm lý. Đồng thời một số phẩm chất tâm lý như tính tự lập, tính đồng cảm, tính hợp tác, khả năng tôn trọng những quy định chung đã có điều kiện phát triển, nhu cầu giao tiếp của trẻ với bạn cùng lứa tuổi trở thành nhu cầu mạnh mẽ đối với trẻ, trẻ muốn tự lực mà tự lực là phẩm chất quan trọng của nhân cách. Vì vậy, việc phát triển tính độc lập cho trẻ ở giai đoạn này là mục tiêu giáo dục ở nhiều nước đang được quan tâm. Hơn nữa ở lứa tuổi này trẻ vẫn đang trong thời kỳ phát cảm ngôn ngữ, trẻ phát âm đúng hơn,vốn từ tăng mạnh và phong phú không chỉ về danh từ mà cả về động từ, tính từ, liên từ, từ gợi cảm, từ ghép, thành ngữ, câu có nhiều thành phần … được phát triển mạnh. Giai đoạn này cũng cần hoàn thiện về phát âm. Phạm vi nghĩa trong vốn từ của trẻ ngày càng mở rộng và phong phú, mạch lạc hơn. Vậy cần tạo tình huống để trẻ sử dụng vốn từ tích cực hình thành kỹ năng giao tiếp đúng ngữ pháp, sử dụng tiếng mẹ đẻ một cách chủ động trong sinh hoạt. Tư duy ở trẻ tuổi này có bước ngoặt cơ bản: từ bình diện bên ngoài chuyển vào bình diện bên trong, bên cạnh kiểu tư duy trực quan hành động xuất hiện kiểu tư duy trực quan hình tượng phát triển và chiếm ưu thế trong suốt tuổi mẫu giáo. Tuy nhiên các biểu tượng, hình tượng trong đầu trẻ để gắn liền với hoạt động nhận thức tích cực cần phải cho trẻ vừa tiếp xúc va chạm, vừa quan sát sự vật, hiện tượng một cách đa dạng, tăng cường thu nhận ấn tượng từ bên ngoài với các giác quan khác nhau, làm cho thế giới biểu tượng của trẻ trở nên chính xác hơn. Trên cơ sở đó xuất hiện kiểu tư duy trực quan sơ đồ làm trung gian để phát triển tư duy lên một bước mới, nảy sinh yếu tố tư duy logich, tạo điều kiện cần thiết giúp trẻ học tập ở lớp 1 sau này. Ngày nay với sự biến đổi và đổi mới không ngừng của hiện thực khách quan, nhiều công trình khoa học đã chứng minh rằng: trí tuệ của trẻ em được phát triển sớm hơn, khuynh hướng, nhu cầu, hứng thú của trẻ ngày càng được mở rộng và phát triển hơn, trẻ biết nhiều điều hơn, nói năng mạch lạc hơn. Những đặc điểm cơ bản về tâm lý trẻ 0 đến 6 tuổi và quy luật phát triển của nó là một trong những cơ sở cho việc đổi mới giáo dục mầm non. 3.1/ Đổi mới giáo dục mầm non Ngành giáo dục mầm non trong những năm qua đã có nhiều thành tựu trong việc chăm sóc giáo dục trẻ, giúp trẻ phát triển tốt về các mặt đức, trí, thể, mỹ. Đó là những phẩm chất tốt mang tính tiền đề song nó có vai trò to lớn trong việc hình thành nhân cách con người mới - những công dân có ích cho đất nước sau này. Bác Hồ đã dạy: “vì lợi ích trăm năm trồng cây, vì lợi ích trăm năm trồng người”. Vì vậy, cô giáo mầm non phải thực sự trở thành người mẹ hiền thứ hai của trẻ, cô cần có những tri thức hiểu biết trong nuôi dạy trẻ, cùng vơi sự tâm huyết nghề nghiệp, sự yêu thương con trẻ cô phải thực sự là tấm gương sáng cho trẻ noi theo. Để môi trường trong trường mầm non thực sự trở thành vườn ươm thế hệ mai sau. Văn kiện Đại hội Đảng VIII đã nêu: “cùng với khoa học và công nghệ, giáo dục là quốc sách hàng đầu, nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, coi trọng cả ba mặt: mở rộng quy mô, nâng cao chất lượng phát huy hiệu quả” Xuất phát từ những mục tiêu đó, ngành học mầm non có chủ trương phấn đấu đạt những mục tiêu trong những năm tới, đảm bảo cho trẻ được hưởng chương trình chăm sóc giáo dục phấn đấu giảm tỷ lệ suy dinh dưỡng cho trẻ trong các cơ sở mầm non, 100% trẻ em được đến trường mầm non, được hưởng chưong trình chăm sóc giáo dục, cung cấp nền móng phát triển về thể lực, trí tuệ, tình cảm, đạo đức, mỹ thuật. - Phấn đấu giảm tỷ lệ suy dinh dưỡng trong các cơ sở giáo dục mầm non, phối kết hợp giữa gia đình, nhà trường và xã hội nhằm nâng cao chất lượng giáo dục trẻ góp phần làm giảm thiệt thòi cho số trẻ còn lại chưa được đến trường. Bên cạnh đó các cô giáo cần chuẩn bị tốt 5 tiêu chuẩn cho trẻ vào lớp 1. Quan điểm của Đảng về giáo dục đào tạo nói chung, giáo dục mầm non nói riêng là phải nhận thức đúng đắn, sâu sắc và phải trở thành mục tiêu hành động thực tiễn. Đó là những căn cứ để các trường mầm non, các cán bộ giáo viên ngành học mầm non, các cấp uỷ đảng, chính quyền, đoàn thể đánh giá thực trạng và tìm hiểu nguyên nhân yếu kém từ đó có kế hoạch và các giải pháp cụ thể để thực hiện tốt mọi nội dung, hình thức, phương pháp giáo dục nhằm phát huy những thành tích đã đạt được và khắc phục mọi tồn tại, đưa công tác nuôi dạy trẻ đi lên và đạt được hiệu quả cao đáp ứng yêu cầu của xã hội. Vì vậy, việc giáo dục trẻ ngay ở lứa tuổi này là vô cùng quan trọng, muốn có kết quả tốt cần kết hợp giữa gia đình và nhà trường cùng các ban ngành ở địa phương để giáo dục trẻ theo quy mô của ngành học và trẻ em được giáo dục đủ các mặt, có đầy đủ hành trang để cập nhật nền công nghiệp hiện nay. III. Giáo dục thẩm mỹ 1. Một số quan điểm về cái đẹp và giáo dục thẩm mỹ cho trẻ mầm non Giáo dục thẩm mỹ cho trẻ là một bộ môn khoa học vì nó có hệ thống giáo dục tốt nhất, có nguyên lý xuất phát, có đối tượng thẩm mỹ, có phương pháp nghiên cứu, có hệ thống khái niệm và phạm trù riêng biệt, có lịch sử phát sinh và phát triển. Chính vì thế, mỹ học trở thành khoa học độc lập, được diễn ra trong quá trình lâu dài từ khi môn học này chưa được coi là một môn khoa học độc lập. Chúng ta tìm thấy mỹ học trong loài người từ rất lâu trong các sản phẩm mỹ nghệ của họ. Nói cách khác thì mỹ thuật của loài người được xuất hiện từ rất sớm trong các nền văn hoá Đông, Tây cổ đại, nếu không kể các tư tưởng thẩm mỹ được nhân cách hóa mà ta chỉ kể các tư tưởng có ý nghĩa lý luận thì các quan điểm thẩm mỹ đã ra đời từ thời văn - sử - triết bất phân. Nhiều tác giả thời cổ đại như Heravit, DemoPitago đều có những tư tưởng mỹ học xuất sắc. Những người tiêu biểu nhất trong lịch sử mỹ học phương tây là hai nhà mỹ học lớn đồng thời là hai hệ thống mỹ học đối lập nhau ra đời đó là Palaton và Arixtot. Arixtot coi cái đẹp là một thực thể vật chất bao gồm trật tự, kích thước và sự cảm nhận còn Palaton coi cái đẹp là ý niệm chung được thâm nhập vào các hiện tượng cụ thể mà trở thành vật đẹp, ông cho rằng cái đẹp có tính vĩnh cửu trong mọi thời gian, mọi địa điểm, mọi ý nghĩa bởi vì nó là ý niệm chứ không phải là một vật cụ thể. Theo Beumgacten cái hoàn mỹ là một cơ sở của cái đẹp, sự hoàn mỹ là nhận thức thuần túy bao gồm có lý tình và ý chí, do đó sự hoàn mỹ là sự thống nhất của Chân - Thiện - Mỹ. Theo các quan điểm cho thấy một sản phẩm hay một hình tượng mỹ học được tôn vinh thì phải có đầy đủ Chân - Thiện - Mỹ từ nhiều khía cạnh mà giáo dục là nhiệm vụ hàng đầu để đưa thế hệ trẻ mai sau có một sản phẩm đẹp, công nghệ mới. Đất nước ta ngày càng phát triển, cuộc sống ngày càng phồn vinh tươi đẹp thì việc đâù tư cho giáo dục được coi là hướng quan trọng vì phát triển giáo dục là quốc sách hàng đầu, tạo điều kiện về nhân lực cho phát triển kinh tế xuất hiện, phát triển giáo dục nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả giáo dục, giúp trẻ học đi đôi với hành cũng như tài đi đôi với đức. Nhà giáo dục dân chủ Thuỵ Sĩ xuất sắc Herpexittolo đã đóng góp một phần to lớn vào sự nghiệp lý luận trước tuổi học, vì ông đã tận mắt chứng kiến sự bần cùng hoá của quần chúng nhân dân và sự suy đồi của chuẩn mực đạo đức trước đó. Ông cho rằng có thể cải thiện tình cảm của nhân dân bằng cách giáo dục đúng đắn và phổ cập giáo dục. Tính chất không tưởng trong những quan điểm của ông thể hiện ở niềm tin ảo tưởng rằng việc giáo dục tự bản thân nó sẽ đảm bảo cho quần chúng nhân dân có một cuộc sống tốt đẹp. Pextologi cho rằng mỗi đứa trẻ bản chất nó có sẵn những tư chất, người lớn phải ra sức phát triển và chú ý tới những khả năng và những đặc điểm của lứa tuổi. Ông đã đặt ra cho hệ thống giáo dục nhiệm vụ phát triển hài hoà về thể chất, lao động,đạo đức, trí tuệ ở trẻ em. Mỹ học Mác - Lênin khẳng định tính có trước của thế giới vật chất giúp ta hình thành được hệ thống tư tưởng mỹ học đúng đắn. Mác cho rằng hoạt động của con người luôn luôn sống và hoạt động nhào nặn vật chất theo quy luật của cái đẹp. Từ khuynh hướng của nghệ thuật Mac - Lênin phát triển thành tính giai cấp, tính Đảng của văn học nghệ thuật. Vì vậy, tư tưởng Mác Lê nin là tư tưởng tiến tiến của thời đạ, trên cơ sở phát triển tiếp thu tinh hoa lịch sử mỹ học. Như vậy, có thể nói cái đẹp được gắn với khát vọng muôn đời của con người, nó ra đời rất sớm cùng với lịch sử, thời gian con người luôn khát vọng đi tìm cái đẹp, vươn tới cái đẹp không bao giờ có giới hạn và nó mang tính quy luật phát triển. 2. Sự cần thiết của giáo dục thẩm mỹ đối với trẻ. Giáo dục thẩm mỹ là một bộ phận không tách rời của hệ thống giáo dục chung đối với thế hệ trẻ và cần bắt đầu nó ngay từ lứa tuổi mầm non . Việc để cho trẻ tiếp xúc với cái đẹp trong nghệ thuật và trong đời sống xung quanh, có ý nghĩa quan trọng không chỉ đối với sự phát triển thẩm mỹ mà cả đối với sự phát triển đạo đức và trí tuệ của trẻ. Vì vậy, cần tạo ra những điều kiện tối ưu cho sự phát triển thẩm mỹ không kể những điều kiện bẩm sinh của chúng thế nào? bởi mỗi đứa trẻ có thể tiếp xúc với tất cả các loại nghệ thuật. Với trẻ mẫu giáo tỏ ra là xuất sắc trong một loại nghệ thuật nào đó thì việc tiếp xúc với các nghệ thuật khác càng làm giàu nhân cách nói chung cũng như làm giàu năng lực của chúng. Trường lớp mầm non là môi trường giáo dục đầu tiên của trẻ, đứa trẻ bị ảnh hưởng tốt xấu như thế nào là do sự tác động cuả cô giáo mầm non, bạn bè, hoàn cảnh sống xung quanh như trường lớp, đồ chơi, đồ dùng, trang trí phòng nhóm…Thông qua các tác phẩm nghệ thuật như: tác phẩm văn học, âm nhạc, hội hoạ… cũng chính thông qua dạy học là phương tiện quan trọng giáo dục thẩm mỹ cho trẻ một cách có mục đích, có kế hoạch. Trẻ mầm non rất thích cái đẹp, thích mọi người khen đẹp, dễ bị lôi cuốn một cách tự phát vào những gì hấp dẫn xung quanh, đó là điều kiện thuận lợi để chúng ta tiến hành thực hiện nhiệm vụ giáo dục thẩm mỹ nhằm giúp trẻ nhận thức đúng đắn về cái đẹp, yêu cái đẹp, biết giữ gìn cái đẹp mong muốn tạo ra cái đẹp ở xung quanh trẻ. *Thực trạng công tác giáo dục thẩm mỹ cho trẻ 5 - 6 tuổi ở trường mầm non Cẩm Sơn - Anh Sơn - Nghệ An IV. Đặc điểm tình hình của huyện Anh Sơn Anh Sơn là huyện miền núi của tỉnh Nghệ An, nằm trên trục đường quốc lộ 7 . Với tổng số dân 76.716 người có 3 dân tộc Kinh, Mường, Dao cùng chung sống trên địa bàn 18 xã và thị trấn. Tổng số : 20 trường mầm non/ 18 xã Năm học 2005 - 2006 ngành mầm non của huyện Anh Sơn đã phát triển mạnh về số và chất lượng, cụ thể: - 138 lớp mẫu giáo - 32 lớp nhóm trẻ - Huy động được 4.354 trẻ ra lớp. - Riêng trẻ 5 tuổi có 46 lớp gồm 1287 cháu đạt 98,2% trẻ trong độ tuổi - Tổng số giáo viên : 276 cô. Trong đó : 248 cô có trình độ chuyên môn - Tổng số trường : 20 trường có hiệu trưởng - Tổng số giáo viên trong biên chế nhà nước : 124 cô; giáo viên ngoài biên chế là 143 cô với mức hưởng phụ cấp 190.000/cô/tháng. * Hạn chế : - Phương pháp giáo dục trẻ về cơ bản vẫn theo kiểu truyền thống với đặc trưng chủ yếu coi cô giáo là “trung tâm” của sự giáo dục. - Cô giáo thường giảng giải và sử dụng mẫu, trẻ chủ yếu ghi nhớ, nhắc lại và làm theo mẫu. - Trong giảng dạy, giáo viên còn phụ thuộc nhiều vào tài liệu hướng dẫn và các bài soạn có sẵn. Các gía trị truyền thống, các hiểu biết được chấp nhận và áp đặt trẻ. - Hình thức tổ chức đơn điệu, nghèo nàn, chủ yếu coi trọng “hình thức tiết học”trẻ ít có điều kiện được sử dụng những điều được học vào trong cuộc sống, hình thức giáo dục mọi lúc, mọi nơi còn ít được chú ý. V. Thực trạng giáo dục thẩm mỹ cho trẻ mẫu giáo 5 - 6 tuổi trường mầm non Cẩm Sơn - Anh Sơn - Nghệ An. * Đặt vấn đề : - “Đức, trí, thể, mỹ” là cái đích cần đạt cuối cùng trong quá trình giáo dục. Mặc dù ở tuổi mầm non yêu cầu giáo dục là sự khởi đầu cho sự hình thành nhân cách sau này, song trẻ vẫn cần được coi là chủ thể nhận thức và là “trung tâm” cho mọi sự hoạt động sáng tạo bởi quá trình hoạt động tích cực sáng tạo làm nảy sinh các vấn đề về phẩm chất : đức, trí, thể, mỹ. - Phẩm chất đạo đức được thể hiện ở các tiêu chí: Biết lễ phép chào hỏi, biết thực hiện các yêu cầu của người lớn, b

File đính kèm:

  • docCopy of SKKN MN TMy.doc
Giáo án liên quan