Giáo trình Tâm lý quản lý

Trong công cuộc đổi mới của Đảng, nhân tốcon người được coi vừa là mục tiêu, vừa là

động lực của sựphát triển kinh tế– xã hội, là một trong những nhân tốquan trọng nhất quyết

định sựthành công của sựnghiệp công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước.

Thực tiễn cho thấy, bất kểhoạt động nào, đặc biệt là hoạt động quản lý, dù là quản lý xã

hội, quản lý khoa học công nghệ, quản lý kinh tế, quản lý giáo dục muốn thực hiện những mục

đích đềra thì phải nhận thức đúng và vận dụng sáng tạo khoa học vềcon người. Cuốn sách tâm

lý quản lýbước đầu muốn giới thiệu với bạn đọc một sốkiến thức tâm lý học cá nhân, vềcác hiện

tượng tâm lý xã hội trong tập thể, vềngười lãnh đạo trong hoạt động quản trị.

pdf133 trang | Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 1776 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Giáo trình Tâm lý quản lý, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
HỌC VIỆN CÔNG NGHỆ BƯU CHÍNH VIỄN THÔNG TÂM LÝ QUẢN LÝ (Dùng cho sinh viên hệ đào tạo đại học từ xa) Lưu hành nội bộ HÀ NỘI - 2007 LỜI MỞ ĐẦU Trong công cuộc đổi mới của Đảng, nhân tố con người được coi vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển kinh tế – xã hội, là một trong những nhân tố quan trọng nhất quyết định sự thành công của sự nghiệp công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước. Thực tiễn cho thấy, bất kể hoạt động nào, đặc biệt là hoạt động quản lý, dù là quản lý xã hội, quản lý khoa học công nghệ, quản lý kinh tế, quản lý giáo dục … muốn thực hiện những mục đích đề ra thì phải nhận thức đúng và vận dụng sáng tạo khoa học về con người. Cuốn sách tâm lý quản lý bước đầu muốn giới thiệu với bạn đọc một số kiến thức tâm lý học cá nhân, về các hiện tượng tâm lý xã hội trong tập thể, về người lãnh đạo …trong hoạt động quản trị. Những vấn đề quản trị, nhất là tâm lý học quản trị thực sự là vấn đề khó, không những về mặt lý luận mà cả về mặt thực tiễn. Bởi lẽ con người luôn giữ vị trí trung tâm trong hoạt động quản lý và luôn là chủ thể của thế giới nội tâm phong phú. Với những thuộc tính muôn màu, muôn vẻ. Các yếu tố đó, một mặt là sản phẩm của hoạt động con người, của các điều kiện kinh tế xã hội, mặt khác là động lực nội sinh đóng vai trò thúc đẩy hoặc cản trở hoạt động quản lý. Tâm lý học ngày nay không chỉ là khoa học về con người, mà trở thành một trong những cơ sở khoa học quan trọng của toàn bộ quá trình quản lý – quản lý kinh tế - quản lý xã hội cũng như quản lý doanh nghiệp. Bởi vậy, việc nghiên cứu tìm hiểu những cơ sở tâm lý học của công tác quản lý là một yêu cầu khách quan và bức thiết đối với tất cả những ai quan tâm đến việc cải tiến quản lý, nâng cao hiệu quả quá trình quản lý, làm tốt việc tuyển chọn, bồi dưỡng và sử dụng cán bộ quản lý. Để quản lý có hiệu quả, người lãnh đạo phải là người quản lý đầy năng lực tổ chức vừa là người có khả năng thấu hiểu sâu sắc về nhu cầu căn bản, tính cách của nhân viên nói chung và khách hàng nói riêng. Căn cứ vào đề cương chi tiết của học viện công nghệ BCVT và yêu cầu của môn học. Tôi biên soạn cuốn “Tâm lý học quản lý” nhằm trang bị cho học sinh những kiến thức về tâm lý quản lý. Trên cơ sở những kiến thức này, sinh viên sẽ có những vận dụng linh hoạt vào thực tiễn đời sống và quản lý kinh tế, xã hội. Chắc chắn trong quá trình biên soạn không tránh khỏi những thiếu sót. Rất mong nhận được những ý kiến đóng góp. Xin chân thành cảm ơn. Chương 1: Tổng quan về tâm lý và tâm lý học quản lý 3 CHƯƠNG I TỔNG QUAN VỀ TÂM LÝ VÀ TÂM LÝ HỌC QUẢN LÝ I. TÂM LÝ HỌC 1. Khái niệm tâm lý học Tâm lý học là khoa học nghiên cứu tâm lý con người, nó vừa nghiên cứu cái chung trong tâm tư của con người, những quan hệ tâm lý của con người với nhau. Hay nói cách khác, tâm lý là sự hiểu biết về ý muốn, nhu cầu thị hiếu của người khác, là sự cư xử hoặc cách xử lý tình huống của người nào đó, khả năng chinh phục đối tượng 2. Các hiện tượng tâm lý của con người Tìm hiểu tâm lý con người, chúng ta cần chú ý đến hai dạng hiện tượng sau đây: 2.1. Tâm lý cá nhân: Là những hiện tượng tâm lý chủ yếu nảy sinh trong một con người nhất định như nhận thức của cá nhân, cảm xúc của cá nhân, ý chí, ý thức, ngôn ngữ của cá nhân v.v… Mỗi hiện tượng trên lại bao gồm nhiều hiện tượng khác. Ví dụ: Nhận thức cá nhân bao gồm cảm giác, tri giác, tư duy tưởng tượng của cá nhân đó v.v… Mỗi cá nhân có một thế giới tâm lý riêng. Ta thường gọi là thế giới tâm hồn thế giới bên trong, thế giới nội tâm v.v… Khi nghiên cứu, đánh giá về cá nhân con người, cần chú ý đến 2 loại hiện tượng sau: - Tâm lý có ý thức: Là những hiện tượng tâm lý có sự tham gia điều khiển, điều chỉnh của ý thức con người. Đây là những hiện tượng tâm lý có thể tạo nên giá trị xã hội của con người, có thể là những hiện tượng tâm lý có ý nghĩa quan trọng mà hoạt động quản trị kinh doanh, nhà kinh doanh cần phải lưu ý xem xét, dựa vào đó mà đánh giá con người. - Tâm lý vô thức: Là những hiện tượng tâm lý không có hoặc ít có sự tham gia của ý thức, như say rượu nói năng lảm nhảm, ngủ mơ, nói mơ, tâm lý của người điên khùng v.v…Những hiện tượng này thường không có ý nghĩa lớn trong việc đánh giá con người. 2.2. Tâm lý tập thể hay tâm lý xã hội: Là những hiện tượng tâm lý nảy sinh trong mối quan hệ giữa người này đối với người khác, hoặc những hiện tượng tâm lý của một nhóm người. Như tâm lý trong giao tiếp, tâm lý tập thể, tâm trạng tập thể … Tâm lý xã hội cũng rất phức tạp và nảy sinh diễn biến theo những quy luật nhất định. 2.2.1. Các hiện tượng tâm lý con người có đặc điểm sau đây: Hiện tượng tâm lý rất phức tạp và đa dạng: - Các hiện tượng tâm lý có rất nhiều biểu hiện ở nhiều dạng khác nhau. - Trong một thời điểm, ở mỗi người có thể xuất hiện nhiều hiện tượng tâm lý, có khi những hiện tượng trái ngược nhau, tạo nên sự mâu thuẫn, băn khoăn, đấu tranh tư tưởng, dằn vặt nội tâm Chương 1: Tổng quan về tâm lý và tâm lý học quản lý 4 trong con người. Bởi vậy, có khi chính con người cũng không tự hiểu được tâm lý của chính mình. - Còn nhiều hiện tượng tâm lý phức tạp cho đến ngày nay có những hiện tượng mà con người chưa giải thích được đầy đủ, rõ ràng, như hiện tượng ngoại cảm, hiện tượng nói mơ, mộng du v.v… + Các hiện tượng tâm lý có quan hệ mật thiết với nhau, tạo nên một thể thống nhất chi phối lẫn nhau, hiện tượng này làm xuất hiện hiện tượng khác. + Tâm lý là hiện tượng tinh thần. + Tâm lý là những hiện tượng rất quen thuộc gần gũi với con người . + Tâm lý có sức mạnh to lớn đối với cuộc sống con người. + Nghiên cứu con người chính là nghiên cứu, tìm hiểu tâm lý của họ. Giao tiếp với con người, quản lý con người chính là tác động vào tâm lý con người. Chỉ khi nắm vững tâm lý con người, tác động phù hợp với quy luật tâm lý mới có thể đạt hiệu quả cao trong lao động sản xuất trong quản trị kinh doanh. 2.2.2. Các hiện tượng tâm lý cơ bản của con người: Có rất nhiều cách phân biệt hiện tượng tâm lý. Trước hết ta phân biệt hiện tượng tâm lý của cá nhân với hiện tượng tâm lý xã hội. Tâm lý cá nhân điều hành hành động và hoạt động của cá nhân, người có tâm lý đó là phản ảnh hiện thực khách quan trong hoạt động của người đó mà thôi. Nhưng thường khi tham gia vào hoạt động không phải chỉ có một cá nhân mà lại có nhiều người, từ một nhóm nhỏ cho đến những cộng đồng xã hội rộng lớn với nhiều kích thước khác nhau. Hiện tượng nảy sinh trong trường hợp đó sẽ điều hành những hành động, hoạt động tương đối giống nhau của cả cộng đồng và cũng phản ảnh hiện thực khách quan bao hàm trong hoạt động này một cách tương đối giống nhau. a. Hoạt động nhận thức Là hoạt động của con người nhằm nhận biết về thế giới khách quan, trả lời các câu hỏi: Đó là cái gì? Đó là ai? Người đó như thế nào? Việc đó có ý nghĩa gì? v.v… Hoạt động nhận thức là hoạt động tâm lý cơ bản nhất trong đời sống tâm lý con người. Nó quyết định sự tồn tại và phát triển của con người, quyết định tài năng, nhân cách con người. Tìm hiểu con người trước hết là tìm hiểu nhận thức của họ. Hoạt động nhận thức diễn ra theo 2 giai đoạn: nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính. Nhận thức cảm tính là mức độ nhận thức thấp, nhận thức giác quan cho ta biết được những đặc điểm bề ngoài của con người như nét mặt, hình dáng, màu sắc… Giai đoạn này bao gồm quá trình cảm giác và quá trình tri giác. Nhận thức lý tính là mức độ nhận thức cao, nhận thức bằng hoạt động trí tuệ, cho ta biết được những đặc điểm bên trong, bản chất của con người như đạo đức, tài năng, quan điểm, ý thức…con người. Nhận thức lý tính bao gồm quá trình tư duy và quá trình tưởng tượng. Nhà quản trị cần phân biệt rõ hai giai đoạn này trong hoạt động của mình, nhất là khi đánh giá con người. Cần nhận thức với hiện tượng với bản chất, hành vi và nội tâm, lời nói, việc làm với ý thức, tài năng… Chương 1: Tổng quan về tâm lý và tâm lý học quản lý 5 Khi đánh giá năng lực con người cần chú ý đến những đặc điểm sau đây ở họ: - Sự nhạy bén, tinh tế khi nhận thức (phát hiện vấn đề có nhanh chóng hay không…) - Khả năng quan sát nhanh chóng, chính xác. - Khả năng tư duy, giải quyết vấn đề (có sâu sắc, linh hoạt, sáng tạo, độc đáo không. v.v…) - Trình độ nhận thức của con người. Khi đánh giá trình độ nhận thức cần chú ý các đặc điểm sau đây: + Trình độ kiến thức: Đó là sự hiểu biết, khối lượng kiến thức về lĩnh vực chuyên môn, hoặc đời sống xã hội …Trình độ kiến thức thường biểu hiện ở bằng cấp, trình độ học vấn, học vấn đến cấp nào, trình độ nào, trường nào…) + Trình độ văn hóa xã hội là trình độ hiểu biết về đời sống văn hóa xã hội (về đạo đức, cách cư xử, giao tiếp thẩm mỹ…) + Trình độ kinh nghiệm sống (sự từng trải, những hoạt động đã trải qua …) + Trình độ tư duy: khả năng tiếp nhận hoặc giải quyết vấn đề, sự linh hoạt sáng tạo hoặc ứng xử thích hợp. Đó là những biểu hiện quan trọng của hoạt động nhận thức con người cho ta xác định được năng lực nhận thức của họ. Đó là những căn cứ quan trọng để sử dụng con người. Nhà quản trị cần chú ý rèn luyện những phẩm chất sau: - Sự nhạy bén khi giao tiếp, khi đánh giá tình hình hoạt động, đó là tính nhạy cảm cao. - Năng lực quan sát, phát hiện vấn đề, thu thập thông tin… - Khả năng phân tích, đáng giá sự việc nhanh chóng và chính xác, tìm phương án giải quyết đúng đắn (năng lực tư duy kỹ thuật, tư duy quản lý, tư duy chính trị) - Khả năng kế họach hóa mọi hoạt động - Sự sáng tạo thực hiện kế họach và vận dụng mệnh lệnh chỉ thị cấp trên cho phù hợp với tình hình đơn vị mình. b. Hoạt động tình cảm Hoạt động tình cảm có ý nghĩa rất lớn đối với cuộc sống con người. Nó chi phối cuộc sống, hoạt động và các mối quan hệ của con người. Trong hoạt động tình cảm có hai mức độ rất quan trọng: Xúc cảm và tình cảm: - Xúc cảm là: Những hiện tượng của đời sống tình cảm, thường diễn ra trong khoảng thời gian ngắn, người ngoài có thể nhìn thấy được. Xúc cảm có nhiều biểu hiện như vui mừng, giận hờn, lo âu, sợ hãi, thích thú, dễ chịu…Xúc cảm cho ta thấy được hiện trạng xúc cảm của con người. Nó biểu thị thái độ của con người. Khi giao tiếp với con người, dựa vào xúc cảm, ta có thể xác định được thái độ của họ đối với mình: Tôn trọng hay coi thường, hài lòng hay khó chịu, thân thiện hay độc ác… Đối với người dễ bộc lộ xúc cảm, ta biết được thái độ của họ dễ dàng hơn những người không bộc lộ cảm xúc. Những người này thường có dáng vẻ bên ngoài lầm lì, lạnh lùng, điềm nhiên…Họ là những người khó hiểu hơn. Những người không hoặc ít bộc lộ cảm xúc có hai loại cần chú ý: - Loại người sâu sắc, kín đáo, có bản lĩnh. Chương 1: Tổng quan về tâm lý và tâm lý học quản lý 6 - Loại người cần cù, đần độn, chậm hiểu, khờ dại… Do con người có ý thức, họ có thể giả tạo trong biểu hiện xúc cảm. Bởi vậy, khi đánh giá con người, nhà quản trị cần có nhận xét tinh tế, để phân biệt được sự biểu hiện xúc cảm thật hay giả của con người. Trong đời sống xúc cảm, có một hiện tượng nhà quản trị cần lưu ý, đó là xúc động Xúc động là những xúc cảm có cường độ mạnh hoặc rất mạnh như quá giận dữ, quá đau khổ, quá khiếp sợ …Xúc động thường ảnh hưởng lớn đến con người trong hoạt động, trong giao tiếp cư xử của họ. Trong hoạt động quản trị kinh doanh, xúc động thường gây ra nhiều tác hại to lớn: - Nó làm cho nhà quản trị thiếu sáng suốt, không lường trước được hậu quả của hành vi, mất cân bằng trong hoạt động, dễ mắc sai lầm trong quyết định, trong việc ra mệnh lệnh … - Xúc động dễ làm căng thẳng mối quan hệ hoặc làm xấu đi mối quan hệ của con người, giữa thủ trưởng với nhân viên, dễ làm cho con người dễ bộc lộ nhược điểm, điểm yếu… Xúc động dễ làm cho cơ thể mất cân bằng, làm cho sức khỏe dễ bị giảm sút nhanh chóng, thậm chí làm cho người ta già đi nhanh hơn, ốm yếu đi nhanh hơn, xấu đi nhanh hơn hoặc làm cho con người ngất xỉu đi, chân tay run rẩy… Bởi vậy, nhà quản trị cần biết điều chỉnh xúc cảm, tránh để xúc động. Nếu bị xúc động cần biết kiềm chế, không nên để cấp dưới chứng kiến sự xúc động của mình. Nhà quản trị không nên có những biểu hiện quá vui sướng, quá đau khổ, quá thất vọng, quá khiếp sợ…trước mặt cấp dưới. Đặc biệt nhà quản trị không nên dận dữ, la lối, quát tháo cấp dưới. Sự xúc động đó thường biểu hiện sự bất lực, sự thô bạo, sự thiếu tôn trọng con người. Nó dễ tạo nên hiện tượng “uy tín giả” ở nhà quản trị. Nhà quản trị cần biết cách cư xử khéo léo đối với người khác khi họ ở trong trạng thái xúc động. Trong trường hợp này, nhà quản trị cần biết vận dụng những thủ thuật tâm lý, sự cư xử khéo léo để giải tỏa sự xúc động của họ. Một trong những yếu tố quan trọng của nghệ thuật quản trị là luôn luôn biết giữ gìn trạng thái cân bằng trong xúc cảm, ngăn chặn các xúc động, biết kiềm chế khi bị xúc động và biết xử lý phù hợp với con người khi họ bị xúc động. - Tình cảm là: Những biểu hiện của đời sống tình cảm diễn ra trong khoảng thời gian dài, ổn định. Tình cảm biểu thị thái độ của con người đối với sự vật hoặc người khác. Tình cảm chi phối các xúc cảm được hình thành trên cơ sở kết hợp, tổng hợp của nhiều xúc cảm. Tình cảm thường tiềm tàng trong con người và thường bộc lộ thông qua các xúc cảm. Tình cảm chỉ được nhận biết qua các xúc cảm. Con người có nhiều tình cảm như tình yêu tổ quốc, tình yêu nam nữ, tình bạn, tình mẫu tử, tình anh em, tình đồng nghiệp, tình nghĩa… Tình cảm có vai trò lớn đối với con người. Nó chi phối cuộc sống, hoạt động của con người. Nó làm cho nhận thức, ý chí, hành vi, cách đánh giá …và toàn bộ đời sống tâm lý bị biến đổi đi. Tình cảm là chỗ mạnh nhất nhưng cũng là chỗ yếu nhất của con người. Trong quản trị kinh doanh việc tác động vào tình cảm của con người có ý nghĩa rất quan trọng. Chương 1: Tổng quan về tâm lý và tâm lý học quản lý 7 Tình cảm làm tăng hoặc giảm sự gắn bó của con người với công việc, với tập thể, làm tăng hoặc giảm tính tích cực và hiệu quả của hoạt động, ảnh hưởng mạnh đến năng suất và chất lượng sản phẩm. Nhà quản trị cần chú ý: - Xây dựng mối quan hệ tốt đẹp, tình cảm tốt đẹp giữa các thành viên trong tập thể, giữa đơn vị với khách hàng. - Quản lý con người bằng tình cảm chân thực, bằng sự thương mến, quan tâm đến con người, cảm hóa con người. - Chú ý đến yếu tố tình cảm trong hoạt động quản trị. Tác động vào tình cảm và tác động bằng tình cảm. - Phải giải quyết công việc một cách có lý, có tình. - Cần dè chừng, cảnh giác trước những cơn xúc động: Giận dữ, quá lo âu, trạng thái căng thẳng. - Tránh để tình cảm chi phối dẫn đến sự thiên lệch trong cư xử với cấp dưới, hoặc ấn tượng, thành kiến, thiếu khách quan khi đánh giá con người. Muốn xây dựng tình cảm tốt đẹp với cấp dưới, với mọi người cần tạo ra những xúc cảm tốt đẹp với cấp dưới, với mọi người (xúc cảm xuất hiện do sự thỏa mãn do nhu cầu, ước muốn của con người) bằng sự quan tâm chăm sóc, xử sự ân cần, lịch sự, sự tôn trọng con người. 3. Các quá trình tâm lý Là những hiện tượng tâm lý điễn ra trong thời gian tương đối ngắn, có mở đầu, có diễn biến, có kết thúc tương đối rõ ràng, người ta phân biệt thành 3 quá trình: 3.1. Cảm giác Cảm giác là cơ sở của hoạt động tâm lý. Con người nhận biết hiện thực xung quanh bắt đầu từ cảm giác. Cảm giác còn báo hiệu về trạng thái bên trong của cơ thể (Cảm giác đói, khát v.v…). Cảm giác là công cụ duy nhất nối liền ý thức với thế giới bên ngoài. Không có cảm giác thì không thể định hướng được môi trường xung quanh, không thể giao tiếp được với mọi người, không thể lao động, không thể tránh được mọi nguy hiểm. Ví dụ: ta nhận biết quả táo là nhờ những cảm giác có được như: vàng, thơm, ngọt, giòn khi nhai. Đó là thông qua cơ quan cảm giác (mắt, tai, lưỡi, tay…). Cảm giác còn cho ta biết hình ảnh chân thực của hiện thực khách quan. Như vậy, cảm giác là sự phản ánh có tính chất riêng biệt của các sự vật hiện tượng đang trực tiếp tác động đến các giác quan chúng ta. 3.2.Tri giác Tri giác là sự phản ánh các sự vật và hiện tượng khi chúng tác động trực tiếp lên các giác quan. Tri giác được hình thành trên cơ sở của các cảm giác, nhưng tri giác không phải là con số cộng giản đơn các cảm giác. Tri giác phản ảnh cả một tập hợp các thuộc tính và bộ phận của sự vật hiện tượng. Những người khác nhau có tri giác khác nhau. Chương 1: Tổng quan về tâm lý và tâm lý học quản lý 8 Các loại tri giác: Người ta phân biệt tri giác có chủ định và tri giác không có chủ định. Một đặc trưng nhất thiết phải có của tri giác chủ định là sự nổ lực của ý chí. Quan sát một loại tri giác có chủ định, có kế họach lâu dài, có mục đích và có tổ chức. Quan sát sẽ đạt kết quả tốt hơn nếu người quan sát có tầm nhìn rộng trong lĩnh vực quan sát có tư duy, trí nhớ, chú ý phát triển. Chẳng hạn, đôi khi do nhìn các mặt hàng tương tự giống nhau mà mua nhầm phải những thứ hàng mà mình không cần, hoặc khi nhìn nhận về một con người nào đó mà ta nhìn nhận không đúng về bản chất con người đó, đó là hoạt động tư duy trong quá trình tri giác chưa tốt. Một người lãnh đạo muốn rèn luyện và phát triển óc quan sát cần có trình độ tư tưởng cao, niềm tin vững vàng, tính nguyên tắc, quan điểm giai cấp trong việc đánh giá các hiện tượng, các sự kiện, có sự am hiểu con người. 3.3. Trí nhớ Trí nhớ là một quá trình tâm lý trong đó con người củng cố, lưu giữ và sau đó làm hiện lại trong ý thức của mình tất cả những yếu tố của kinh nghiệm quá khứ. Không có trí nhớ thì không thể có bất kỳ hoạt động nào. Trí nhớ là điều kiện chủ yếu của sự phát triển tâm lý con người, nó bảo đảm sự thống nhất và tính toàn diện của nhân cách con người. Trí nhớ diễn ra dưới dạng các quá trình ghi nhớ, giữ lại, nhớ lại (tái hiện). Trong quá trình đó thì ghi nhớ là quá trình chủ yếu. Ghi nhớ quyết định tính đầy đủ và chính xác của sự nhớ lại tài liệu, quyết định tính vững chắc và tính bền vững của sự giữ lại tài liệu. Là quá trình phức tạp nhằm nắm vững, hệ thống hóa nội dung và lược bỏ những gì không cần thiết. 3.4. Tưởng tượng Tưởng tượng là quá trình tâm lý sáng tạo những biểu tượng và ý nghĩa mới dựa trên kinh nghiệm sẵn có. Tương tự như cảm giác, tri giác, tưởng tượng là một quá trình nhận thức tâm lý và phản ánh thực khách quan. Tưởng tượng giữ vai trò to lớn trong bất kỳ hoạt động nào của con người, là điều kiện cần thiết để phát huy sức sáng tạo của con người nhằm biến đổi hiện thực. Tưởng tượng có thể tích cực hay thụ động. Trong trường hợp thứ nhất, tưởng tượng là điều kiện của hoạt động sáng tạo của cá nhân, nhằm biến đổi hiện thực xung quanh. Trong trường hợp thứ 2, tưởng tượng thay thế cho hoạt động (ví dụ, mơ mộng). Tưởng tượng có thể là theo ý muốn hoặc có chủ định. Hình thức đặc biệt của tưởng tượng là ước mơ. Ước mơ là hình ảnh của tương lai mà mình đang mong muốn. Nó nâng cao tính hoạt động của con người, thôi thúc họ vượt qua những trở ngại. Khó khăn nảy sinh trong khi thực hiện những mục đích của mình, ước mơ kêu gọi hành động. Chứ không phải suy tưởng một cách thụ động. 3.5. Tư duy Tư duy là sự nhận thức hiện thực một cách khái quát và gián tiếp. Trong quá trình tư duy, con người hiểu rõ những tính chất cơ bản, những mối liên hệ và quan hệ giữa các sự vật hiện tượng. Sự phản ánh trực tiếp, cảm tính thực hiện qua cảm giác và tri giác tỏ ra chưa đủ cho con người để định hướng đúng đắn trong thế giới tự nhiên và xã hội và trong bản thân mình. Khi tìm kiếm các lời giải cho các câu hỏi đặt ra, con người tập vận dụng những hành động suy nghĩ với Chương 1: Tổng quan về tâm lý và tâm lý học quản lý 9 các đối tượng và các hình ảnh của đối tượng trong ý thức của mình. Tư duy chính là quá trình tâm lý nói trên để nhận thức và biến đổi hiện thực bằng tinh thần, để tìm tòi và khám phá những điều mới mẻ về bản chất. Tư duy phát triển trong lao động, trong giao tiếp thực tiễn xã hội là nguồn tư duy, là mục đích cuối cùng của tư duy là tiêu chuẩn của chân lý. Tư duy bao giờ cũng xuất phát từ những nhu cầu nào đó của cá nhân. Nếu không có nhu cầu thì sẽ không có sự thúc đẩy hoạt động tư duy. Kết quả của tư duy phụ thuộc rất nhiều vào năng lực của con người, biết tập trung vào vấn đề, biết để ý tâm trí vào vấn đề, kiên trì suy nghĩ nghiền ngẫm vấn đề, khắc phục những khó khăn xảy ra, tức là phụ thuộc vào các phẩm chất, ý chí. Ý chí sẽ thúc đẩy tích cực các hoạt động tư duy. Tư duy liên hệ đặc biệt mật thiết với ngôn ngữ. Quá trình chuyển từ cảm giác, tri giác và biểu tượng thành khái niệm được tiến hành bằng lời nói. Lời nói được dùng để khái quát các dấu hiệu của sự vật tách ra những dấu hiệu của bản chất, bỏ qua những dấu hiệu không bản chất, cố định và lưu giữ thông tin, truyền đạt thông tin đó cho người khác, vận dụng các tri thức sẵn có xây dựng những suy lý và bằng cách đó đi đến những tri thức mới. Nhờ có lời nói, mà tri thức trở thành tài sản chung của xã hội, mà hoạt động tư duy của lòai người có được tính kế thừa, đạt được sự phát triển của lịch sử. 3.6. Hoạt động ngôn ngữ Ngôn ngữ: Đó là lời nói, câu viết hay bài viết của con người, tuy nhiên lời nói của con người có phần rất quan trọng. Vì vậy chúng ta sẽ tìm hiểu sâu vấn đề này: - Trong đời sống hoạt động, người ta phải trao đổi với nhau, bàn bạc thảo luận với nhau để đề ra một yêu cầu hoặc để truyền đạt một ý nghĩ, một cảm xúc, hoặc để thống nhất một quan điểm. v.v…Quá trình nói với nhau, thảo luận với nhau hoặc quá trình thuyết trình giảng giải như vậy là quá trình ngôn ngữ. - Xét về bản chất, ngôn ngữ là quá trình con người sử dụng một thứ ngôn ngữ nào đó để truyền đạt hoặc lĩnh hội tâm lý của mình hay của người khác. Ở đây các bạn cần phân biệt ngôn ngữ với hiện tượng khác đó là ngữ ngôn. Ngữ ngôn: Là một thứ tiếng Việt, Anh và tổng quát hơn, ngữ ngôn là một hệ thống những dấu hiệu, ký hiệu, quy tắc mà lòai người hay một tập hợp người xây dựng nên trong quá trình giao tiếp. Ngữ ngôn không phải là hiện tượng tâm lý mà là hiện tượng xã hội, đó là cái chung của xã hội. Khi một người sử dụng một thứ ngôn ngữ để truyền đạt tâm lý của mình thì đó là quá trình ngôn ngữ. Ngôn ngữ: là quá trình tâm lý, một hiện tượng tâm lý. Trong quá trình này, cá nhân dùng ngữ ngôn để thể hiện tình cảm của mình ý nghĩ, tư tưởng của mình theo cách riêng của cá nhân. Ngôn ngữ là cái riêng của từng người, được hình thành trong đời sống tâm lý của người đó. Ngôn ngữ là phương tiện giao tiếp quan trọng. Xét về góc độ nào đó, hoạt động quản trị kinh doanh là hoạt động giao tiếp, vì vậy việc tìm hiểu ngôn ngữ và rèn luyện khả năng ngôn ngữ có ý nghĩa rất quan trọng đối với nhà quản trị kinh doanh. Ngôn ngữ trước hết là hiện tượng tâm lý phức tạp. Để nói ra một lời, một vấn đề, người ta phải suy nghĩ phải nhớ, phải tư duy, phải chọn ý, chọn từ. Khi thể hiện ý hay lại có sự tham gia Chương 1: Tổng quan về tâm lý và tâm lý học quản lý 10 của cảm xúc của tình cảm, của ý chí của sự tự đánh giá v.v…Khi nghe người khác nói chúng ta cũng phải chú ý nghe cho rõ, phải suy nghĩ phân tích lời nói, suy xét về tình huống về hoàn cảnh về nhiều yếu tố khác. Nhiều khi do ảnh hưởng của xúc cảm, của trình độ nhận thức, mỗi người lại có thể hiểu lời nói đó theo một cách khác nhau. Như vậy ngôn ngữ là hiện tượng tâm lý liên quan mật thiết đến đời sống tâm lý của cá nhân. Đặc biệt nó liên quan đến quá trình tư duy. Mỗi một hoạt động ngôn ngữ nào đó đều có sự tham gia của tư duy. Người ta thường nói “ăn nhai, nói nghĩ”. Sự tham gia của tư duy nhiều hay ít làm cho ngôn ngữ của con người đúng hay sai, gọn gàng, mạch lạc hay dài dòng, lúng túng. Ngoài ra trình độ nhận thức, xúc cảm, tình cảm, ý chí đều ảnh hưởng tới ngôn ngữ có thể làm cho ngôn ngữ bị chi phối, bị biến đổi đi. Ngôn ngữ đó là cái riêng của từng người, bị chi phối bởi tâm lý cá nhân của người đó, nhất là chi phối bởi các đặc điểm tâm lý sau đây: 1. Trình độ kiến thức, vốn kinh nghiệm của mỗi người, nhất là năng lực nhận thức và năng lực tư duy. 2. Đặc điểm riêng về nhân cách (đạo đức, khí chất, tài năng, quan điểm sống v.v…) của người đó. 3. Lĩnh vực chuyên môn, nghề nghiệp công tác, cuộc sống riêng tư của từng người. 4. Đặc điểm tâm lý khác như: Tình cảm, trạng thái tâm lý, trạng thái cơ thể, trình độ ngôn ngữ. 5. Đặc điểm của bộ phận phát âm (về cấu trúc chức năng v.v…). Do đó ngôn ngữ con người khác nhau ở âm sắc, âm điệu, nhịp điệu, khác nhau ở cách dùng từ, vốn từ, ngữ pháp cách diễn đạt, lượng thông tin. Trong cuộc sống của chúng ta thường mỗi người tạo nên những phong cách riêng về ngôn ngữ. Ngay cả cách sử dụng từ, cá nhân cũng có thể gán cho nó những ý nghĩa, những màu sắc riêng biệt theo ý của mình, làm cho nó có những ý nghĩ khác biệt so với quy định chung. Tiếng lóng là b

File đính kèm:

  • pdfTâm lý học quản lý- HVCNBCVT.pdf