Chương trình Ngữ Văn lớp 10 đến nay đã trải qua 5 năm thực hiện đổi mới sách giáo khoa của Bộ Giáo dục Đào tạo. Bên cạnh việc lựa chọn các tác phẩm văn học mang tính hình tượng, sử dụng hư cấu với một số thể loại chính như: thơ, truyện, tiểu thuyết (gọi chung là văn bản nghệ thuật) là việc sử dụng tác phẩm văn học không hư cấu được viết bằng nhiều thể loại khác nhau theo mỗi giai đoạn như: nghị luận, sử kí, văn tế, phú, dân ca lịch sử, Nếu như chương trình sách giáo khoa trước đây ít chú ý thể loại văn nghị luận (giảng văn nghị luận) thì chương trình mới xuất hiện khá nhiều loại này. Như vậy, vấn đề thể loại văn học được mở rộng phạm vi, giáo viên và học sinh có điều kiện bao quát về hệ thống thể loại văn học trong nhà trường. Đáng lưu ý nhất là thể loại văn nghị luận, việc giảng dạy và tiếp nhận các tác phẩm thể loại này chưa được chú ý đúng mức.
2. Việc dạy và học văn bản nghị luận gặp nhiều khó khăn bởi các lí do sau:
- Mục đích của văn bản nghị luận: phát ngôn cho một tư tưởng, một quan điểm, một chủ trương, một lập trường xã hội nhất định. Vì thế, nội dung thường là các vấn đề có tính chất thời sự, chính trị, văn hoá, quốc gia, dân tộc, lịch sử, tương đối rộng với tầm hiểu biết phổ biến của học sinh.
- Hình thức: thường sử dụng hệ thống lập luận chặt chẽ, nhiều lí lẽ, đa dạng về phương thức biểu hiện và các phương tiện nghệ thuật.
- Đặc điểm: khô khan, ít phù hợp với tâm lí và nhận thức của học sinh; ít tính văn chương, khó đi vào cảm xúc của người đọc; ý tưởng thâm thuý khó nắm bắt,
36 trang |
Chia sẻ: luyenbuitvga | Lượt xem: 5035 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Kinh nghiệm giảng dạy văn bản nghị luận trong chương trình ngữ văn lớp 10 THPT, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC
Trang
I. Lý do chọn đề tài. 2
II. Thực trạng của vấn đề nghiên cứu. 3
1. Hệ thống văn bản nghị luận trong chương trình Ngữ văn 10 3
2. Kết quả khảo sát và những nhược điểm còn tồn tại trong dạy và học 5
III. Nội dung đề tài . 6
1. Cơ sở lý luận . 6
2. Giải pháp thực hiện . 7
2.1. Xuất phát từ đặc trưng phong cách thể loại 7
2.1.1. Khái niệm 7
2.1.2. Chức năng và đặc trưng 9
2.1.3. Đặc điểm 13
2.2. Vận dụng lịch sử giai đoạn xuất hiện của tác phẩm để lí giải 15
2.3. Bám sát nội dung và hình thức văn bản để triển khai 16
2.4. Gia tăng chất văn học 17
2.5. Sử dụng vai trò tưởng tượng, liên tưởng của học sinh 18
3. Thực hiện: Thiết kế bài học. 20
IV. Kết quả 33
V. Bài học kinh nghiệm 33
VI. Kết luận 34
VII. Tài liệu tham khảo 36
ĐỀ TÀI
KINH NGHIỆM GIẢNG DẠY VĂN BẢN NGHỊ LUẬN
TRONG CHƯƠNG TRÌNH NGỮ VĂN LỚP 10 THPT
I. Lý do chọn đề tài:
1. Chương trình Ngữ Văn lớp 10 đến nay đã trải qua 5 năm thực hiện đổi mới sách giáo khoa của Bộ Giáo dục Đào tạo. Bên cạnh việc lựa chọn các tác phẩm văn học mang tính hình tượng, sử dụng hư cấu với một số thể loại chính như: thơ, truyện, tiểu thuyết (gọi chung là văn bản nghệ thuật) là việc sử dụng tác phẩm văn học không hư cấu được viết bằng nhiều thể loại khác nhau theo mỗi giai đoạn như: nghị luận, sử kí, văn tế, phú, dân ca lịch sử,…Nếu như chương trình sách giáo khoa trước đây ít chú ý thể loại văn nghị luận (giảng văn nghị luận) thì chương trình mới xuất hiện khá nhiều loại này. Như vậy, vấn đề thể loại văn học được mở rộng phạm vi, giáo viên và học sinh có điều kiện bao quát về hệ thống thể loại văn học trong nhà trường. Đáng lưu ý nhất là thể loại văn nghị luận, việc giảng dạy và tiếp nhận các tác phẩm thể loại này chưa được chú ý đúng mức.
2. Việc dạy và học văn bản nghị luận gặp nhiều khó khăn bởi các lí do sau:
Mục đích của văn bản nghị luận: phát ngôn cho một tư tưởng, một quan điểm, một chủ trương, một lập trường xã hội nhất định. Vì thế, nội dung thường là các vấn đề có tính chất thời sự, chính trị, văn hoá, quốc gia, dân tộc, lịch sử,… tương đối rộng với tầm hiểu biết phổ biến của học sinh.
Hình thức: thường sử dụng hệ thống lập luận chặt chẽ, nhiều lí lẽ, đa dạng về phương thức biểu hiện và các phương tiện nghệ thuật.
Đặc điểm: khô khan, ít phù hợp với tâm lí và nhận thức của học sinh; ít tính văn chương, khó đi vào cảm xúc của người đọc; ý tưởng thâm thuý khó nắm bắt,…
Nguồn tư liệu bổ trợ khan hiếm.
3. Xu thế hội nhập quốc tế hiện nay đang đặt mỗi cá nhân trước nhiều thách thức mới, nhất là các vấn đề chính trị xã hội. Việc tiếp nhận các văn bản nghị luận trong nhà trường góp phần không nhỏ trong việc hình thành hệ thống quan điểm, tư tưởng cho thế hệ trẻ trong việc xử lí các vấn đề đặt ra của cuộc sống một cách đúng đắn, vừa phù hợp với tinh thần thời đại mới, vừa đảm bảo tinh thần quốc gia, dân tộc.
Trong khi đó, những văn bản nghị luận lại được giảng dạy và tiếp nhận với tư cách là tác phẩm văn học, vì thế, cái khó của người dạy là vừa đảm bảo tính khách quan của tác phẩm, vừa truyền lại những rung cảm của văn bản với tư cách là một sáng tạo nghệ thuật thật sự. Chính vì tầm quan trọng của thể loại, sự khó khăn của giáo viên khi giảng dạy, tôi xin được đề xuất một vài kinh nghiệm có tính chất cá nhân góp phần đổi mới hướng nghiên cứu và giảng dạy môn Văn trong nhà trường qua đề tài: “Kinh nghiệm giảng dạy những văn bản nghị luận trong chương trình Ngữ Văn lớp10”.
II. Thực trạng
1. Hệ thống văn bản nghị luận trong chương trình Ngữ Văn 10: chiếm khối lượng khá nhiều.
Bộ
Thể Loại
Tên văn bản
Tác giả
Năm
Trang
SGK cơ bản
Chính trị
Đại cáo bình Ngô
Nguyễn Trãi
Cuối 1427
Tập 2 tr.16
Văn hoá XH
Tựa “Trích diễm thi tập” (trích)
Hoàng Đức Lương
1497
Tập 2 tr.28
Hiền tài là nguyên khí
của quốc gia
(Trích Bài kí đề danh tiến sĩ khoa Nhâm Tuất, niên hiệu Đại Bảo thứ ba) Đọc thêm
Thân Nhân Trung
1484
Tập 2 tr.31
Nhân vật LS
Hưng Đạo đại vương
Trần Quốc Tuấn
(Trích Đại Việt sử kí toàn thư)
Ngô Sĩ Liên
Nhà Trần
Tập 2 tr.41
Thái sư Trần Thủ Độ
(Trích Đại Việt sử kí toàn thư)
Đọc thêm
Ngô Sĩ Liên
Nhà Lý – Trần
Tập 2 tr.46
SGK nâng cao
Chính trị
Thư dụ Vương Thông lần nữa
(Trích Quân trung từ mệnh tập)
Nguyễn Trãi
Tháng 2 – 1427
Tập 2 tr.16
Đại cáo bình Ngô
Nguyễn Trãi
Cuối 1427
Tập 2 tr.24
Văn hoá XH
Hiền tài là nguyên khí
của quốc gia
(Trích Bài kí đề danh tiến sĩ khoa Nhâm Tuất, niên hiệu Đại Bảo thứ ba) Đọc thêm
Thân Nhân Trung
1484
Tập 2 tr.41
Tựa “trích diễm thi tập” (trích)
Hoàng Đức Lương
1497
Tập 2 tr.50
Nhân vật lịch sử
Phẩm bình nhân vật lịch sử
(Trích Đại Việt sử kí toàn thư)
Đọc thêm
Lê Văn Hưu
1272
Tập 2 tr.43
Thái phó Tô Hiến Thành
(Trích Đại Việt sử lược)
Một số sử gia
Cuối
TK14
Tập 2 tr.53
Thái sư Trần Thủ Độ
(Trích Đại Việt sử kí toàn thư)
Ngô Sĩ Liên
Nhà Lý - Trần
Tập 2 tr.62
Hưng Đạo Đại Vương
Trần Quốc Tuấn
(Trích Đại Việt sử kí toàn thư)
Đọc thêm
Ngô Sĩ Liên
Nhà Trần
Tập 2 tr. 65
2. Kết quả khảo sát và những nhược điểm còn tồn tại trong dạy và học:
Đối với việc dạy học Văn ở các cấp học nói chung và ở trường học phổ thông nói riêng, việc làm sao để đảm bảo được nội dung kiến thức bài học mà đồng thời học sinh lại phải chủ động chiếm lĩnh kiến thức bài học theo yêu cầu đổi mới về phương pháp hiện nay quả thật là điều không dễ thực hiện. Văn học là khoa học nhưng cũng là nghệ thuật, vì vậy việc dạy văn đòi hỏi người giáo viên phải vận dụng nhiều kĩ năng, trong đó không chỉ là kiến thức mà đòi hỏi cả sự sáng tạo, linh hoạt của người giáo viên ở mỗi bài dạy cụ thể. Sự chuẩn bị kĩ càng cho việc lên lớp của người giáo viên từ khâu chuẩn bị - tức là phần thiết kế bài dạy - là một trong những yếu tố góp phần không nhỏ vào hiệu quả của tiết học, đặc biệt là với những tiết học đọc văn, trong đó có những văn bản nghị luận.
Trước thực tế đó, tôi đã tiến hành khảo sát tìm hiểu về phía học sinh. Cụ thể, tôi đã phát câu hỏi cho 407 học sinh lớp 10 của trường để các em phát biểu những cảm nhận và nêu ý kiến, nguyện vọng của mình khi tiếp cận các văn bản nghị luận. Nội dung câu hỏi là: Em có cảm nhận như thế nào khi học những văn bản nghị luận?
Kết quả :
+ 78,62% học sinh trả lời: Văn bản nghị luận có ý nghĩa, thực tế nhưng đa phần dài, khô khan, khó nhớ nên không thích học bằng các văn bản thuộc thể loại khác.
+ 14,99% học sinh trả lời: có thích học nhưng chưa thật sự hiểu.
+ 6,39% học sinh trả lời: không hiểu gì, không thích học.
Kết quả trên cho thấy, phần đa học sinh không thích học văn bản thuộc thể loại nghị luận. Tuy nhiên, có đến 78,62% học sinh nhận ra ý nghĩa của văn bản nghị luận, nghĩa là nguyên nhân các em không thích học các văn bản này là do chưa thực sự hứng thú với giờ học mà thôi.
Từ thực trạng trên, cộng với kinh nghiệm giảng dạy cá nhân, tôi nhận thấy trong dạy và học văn bản nghị luận trong chương trình Ngữ Văn lớp 10 còn tồn tại những nhược điểm sau:
Phía người dạy:
Tâm lí: ít hứng thú, chưa coi trọng, giờ dạy ít hào hứng.
Cách truyền đạt: chú ý tính nội dung văn bản nhiều hơn tính nghệ thuật, vì thế, giờ dạy thiên về lí trí hơn việc biểu đạt những xúc cảm thẩm mĩ.
Kết quả: nghiêng về những thông tin, dư âm của những rung cảm thẩm mĩ hạn chế.
Phía người học:
Tâm lí tiếp nhận: nghiêng về tìm hiểu những thông tin hơn là việc biểu lộ cảm xúc.
Cách tiếp nhận: nghiêng về mặt xã hội, chính trị.
Kết quả: giờ học tác phẩm thành giờ tìm hiểu lịch sử.
Với khối lượng văn bảnkhá nhiều và thực tế dạy - học nêu trên, tôi đề xuất một số giải pháp bước đầu mà bản thân thấy có hiệu quả trong quá trình giảng dạy.
II. Nội dung đề tài:
1. Cơ sở lý luận:
Văn nghị luận là một thể văn ra đời từ rất lâu. Ở Trung Hoa, văn nghị luận có từ thời Khổng Tử (551- 479TCN). Ở Việt Nam, văn nghị luận cũng là một thể loại có truyền thống lâu đời, có giá trị và tác dụng hết sức to lớn trong trường kì lịch sử, trong công cuộc dựng nước và giữ nước. Có thể kể từ Chiếu dời đô(1010) của Lí Công Uẩn (Lí Thái Tổ), Hịch tướng sĩ (1285) của Trần Quốc Tuấn cho đến Bình Ngô đại cáo (1428) của Nguyễn Trãi; từ bài Tựa Trích diễm thi tập (1497) của Hoàng Đức Lương, Chiếu cầu hiền (1788) của Ngô Thì Nhậm đến bản điều trần Xin lập khoa luật (1867) của Nguyễn Trường Tộ; Chiếu Cần Vương (1885) đến Hịch đánh Pháp sau này…
Có thể nói trong suốt trường kì lịch sử dân tộc, văn nghị luận là một thể văn phản ánh rõ nhất đời sống tinh thần, tư tưởng, ý chí và khát vọng của cả một dân tộc. Do đó, văn nghị luận ngày càng phát triển mạnh mẽ, càng trở nên đa dạng và phong phú hơn.
Nội dung và cấu trúc của một văn bản nghị luận được hình thành từ các yếu tố cơ bản là: Vấn đề cần nghị luận (còn gọi là luận đề), luận điểm, luận cứ và lập luận (còn gọi là luận chứng). Như vậy, do văn nghị luận trình bày tư tưởng và thuyết phục người đọc chủ yếu bằng lí lẽ và lập luận nên hệ thống các luận điểm hết sức chặt chẽ và luận cứ cũng phải xác đáng. Cho nên khi dạy loại văn bản này, người dạy nhất thiết bao giờ cũng phải khai thác hệ thống luận điểm, luận cứ và cách lập luận của văn bản. Tuy nhiên nếu chỉ đơn thuần khai thác các hệ thống luận điểm như lâu nay chúng ta vẫn làm thì bài học trở nên khô khan, khó gợi được hứng thú tích cực cho học sinh. Vì vậy trong khuôn khổ của một sáng kiến kinh nghiệm nhỏ, tôi xin được đề xuất một số giải pháp mang tính bổ trợ để những giờ đọc – hiểu văn bản nghị luận thêm sinh động.
2. Giải pháp thức hiện:
2.1. Xuất phát từ đặc trưng phong cách thể loại mà triển khai văn bản trên các phương diện: đề tài, chủ đề (mục đích), hình thức, nội dung, ý nghĩa,… Thể loại nghị luận (tức văn chính luận) có các đặc điểm cơ bản sau đây:
2.1.1. Khái niệm:
Phong cách (PC) ngôn ngữ chính luận là PC được dùng trong lĩnh vực chính trị xã hội. Người giao tiếp ở PC này thường bày tỏ chính kiến, bộc lộ công khai quan điểm chính trị, tư tưởng của mình đối với những vấn đề thời sự nóng bỏng của xã hội. Ðây là khái niệm ít nhiều mang tính truyền thống và việc phân giới giữa phong cách này với PC ngôn ngữ khoa học, PC ngôn ngữ báo chí vẫn còn một số quan niệm chưa thống nhất.
Ví dụ:
Tác phẩm
Lĩnh vực
Quan điểm, tư tưởng
Ghi chú
Đại cáo bình Ngô
(Nguyễn Trãi)
Chính trị
- Vạch trần âm mưu xâm lược, lên án chủ trương cai trị thâm độc, tố cáo mạnh mẽ những hành động độc ác của giặc Minh.
- Đứng trên quan điểm nhân nghĩa của nhân dân: lấy dân làm gốc, coi trọng tư tưởng nhân đạo, nhân bản cao cả làm nền tảng cho hành động.
Tựa “Trích diễm thi tập”
(Hoàng Đức Lương)
Văn hoá
xã hội
- Đau xót trước thực trạng bảo tồn sách vở và thơ ca Việt Nam đương thời. Từ đó nhận thấy nhu cầu bức thiết phải biên soạn sách.
- Đứng trên quan điểm của cái đẹp.
Hiền tài là nguyên khí của quốc gia
(Thân Nhân Trung)
Văn hoá
Xã hội
- Phải biết quý trọng hiền tài bởi nó có mối quan hệ sống còn đối với việc thịnh suy của đất nước.
- Coi giáo dục là quốc sách hàng đầu bởi “một dân tộc dốt là một dân tộc yếu”.
Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn
(Ngô Sĩ Liên)
Nhân vật lịch sử
- Ca ngợi người anh hùng tài năng, trung quân, trọng dân, chính trực, chân thành, thẳng thắn.
Thái sư Trần Thủ Độ
(Ngô Sĩ Liên)
Nhân vật Lịch sử
- Ca ngợi người anh hùng trung thực, thẳng thắn, độ lượng, nghiêm minh, chí công vô tư.
2.1.2. Chức năng và đặc trưng:
Chức năng:
PC chính luận có ba chức năng: thông báo, tác động và chứng minh. Chính vì thực hiện các chức năng này mà ta thấy PC ngôn ngữ chính luận có sự thể hiện đặc trưng và đặc điểm ngôn ngữ có nét giống với các loại phong cách ngôn ngữ khác.
Ví dụ : Chức năng một số văn bản nghị luận.
Tác phẩm
Chức năng
Thông báo
Tác động
Chứng minh
Đại cáo bình Ngô
(Nguyễn Trãi)
- Chiến thắng giặc Minh và nền dân chủ thái bình. Kết thúc chiến tranh.
- Sức mạnh của tư tưởng nhân nghĩa kết hợp với sức mạnh của lòng yêu nước.
- Niềm tự hào dân tộc và ý thức bảo vệ nền dân chủ thái bình.
- Tư tưởng nhân nghĩa trong mỗi người.
- Nêu tư tưởng nhân nghĩa và chân lí độc lập của dân tộc.
- Kể tội ác của giặc (kẻ thù phi nghĩa).
- Kể lại diễn biến cuộc kháng chiến khó khăn (Đại Việt chính nghĩa).
Tựa “Trích diễm thi tập”
(Hoàng Đức Lương)
- Lí do vì sao làm “Trích diễm thi tập”.
- Quá trình hoàn thành, nội dung và kết cấu.
- Thời gian viết, họ tên, chức danh, quê quán, tên hiệu người viết.
- Thái độ trân trọng và bảo lưu cái đẹp của mỗi người.
- Niềm tự hào dân tộc, tình cảm xót xa trước sự tàn lụi của cái đẹp.
- Thu thập sưu tầm, thu lượm tác phẩm qua các thời kì lịch sử.
- Tuyển chọn, sắp xếp, đặt tên sách.
- Đưa thêm các bài thơ của mình vào phần cuối tác phẩm.
Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn
(Ngô Sĩ Liên)
- Tên tuổi, địa vị người anh hùng dân tộc.
- Lịch sử người anh hùng dân tộc qua các thời kì.
- Lòng cảm phục và sự ngưỡng mộ của mỗi người.
- Tấm lòng với non sông, tổ quốc, khí phách anh hùng trong mỗi người.
- Đưa ra các chứng cứ về tài năng và phẩm chất, đức độ.
- Dùng các quan hệ làm sáng tỏ chân dung, những tình huống làm sáng tỏ nhân cách.
Ðặc trưng: PC chính luận có ba đặc trưng.
Tính bình giá công khai: Người nói, người viết bao giờ cũng bộc lộ công khai, rõ ràng trực tiếp quan điểm, thái độ của mình đối với sự kiện. Ðây là đặc trưng khu biệt PC ngôn ngữ chính luận với PC ngôn ngữ khoa học và PC ngôn ngữ nghệ thuật. Nếu văn chương là bình giá gián tiếp, khoa học là tránh sự thể hiện những yếu tố cảm tính chủ quan thì ngôn ngữ của PC chính luận bao giờ cũng bộc lộ trực tiếp quan điểm, thái độ của mình về một vấn đề thời sự của xã hội. Sự bình giá này có thể là của cá nhân hoặc nhân danh một tổ chức, đoàn thể chính trị nào đó.
Tính lập luận chặt chẽ: Ðể bày tỏ chính kiến, giải thích, thuyết phục và động viên mọi người tham gia vào việc giải quyết những vấn đề thời sự nóng hổi của đất nước, sự diễn đạt ở PC này đòi hỏi có tính chất lập thuyết. Nghĩa là phải bằng những lí lẽ đúng đắn, có căn cứ vững chắc, dựa trên cơ sở những luận điểm, luận cứ khoa học mà đấu tranh, thuyết phục, động viên. Tính lập luận chặt chẽ thể hiện ở việc khai thác những quan hệ chiều sâu giữa hình thức ngôn ngữ và mục đích biểu đạt. Một văn bản chính luận hay thường là những văn bản chứa đựng nhiều hàm ý sâu sắc, có sức chinh phục lòng người, có sức cuốn hút mãnh liệt.
Tính truyền cảm: PC ngôn ngữ chính luận có tính truyền cảm mạnh mẽ, thông qua sự diễn đạt hùng hồn, sinh động, có sức hấp dẫn và đạt hiệu quả cao, thuyết phục cả bằng lí trí và tình cảm, đạo đức. Ðặc trưng này tạo nên sự khu biệt giữa PC ngôn ngữ chính luận với PC ngôn ngữ khoa học và khiến PC này gần với PC ngôn ngữ nghệ thuật. Trong văn bản chính luận, chúng ta thường bắt gặp các biện pháp tu từ, những từ ngữ có đặc điểm tu từ cao nhằm gây ấn tượng mạnh mẽ về mặt âm thanh và ý nghĩa.
Ví dụ : Đặc trưng một số văn bản nghị luận.
Tác phẩm
Đặc trưng
Tính bình giá
công khai
Tính lập luận
chặt chẽ
Tính truyền cảm
Đại cáo bình Ngô
(Nguyễn Trãi)
- Căm phẫn trước tội ác của giặc.
- Xót xa trước nỗi khổ của dân, tự hào vui sướng trước chiến thắng của ta.
- Nêu tiền đề: chân lí độc lập dân tộc và tư tưởng nhân nghĩa.
- CM qua thực tiễn: kẻ thù phi nghĩa (tố cáo tội ác của giặc), Đại Việt chính nghĩa (khởi nghĩa Lam Sơn).
- Rút ra kết luận: Sức mạnh của nhân nghĩa, độc lập dân tộc đã chiến thắng kẻ thù xâm lược, tương lai đất nước huy hoàng.
- Các thủ pháp nghệ thuật.
- Hình tượng kì vĩ mang tầm vóc vũ trụ, đa dạng.
- Ngôn ngữ: sử dụng các động từ mạnh, các tính từ chỉ mức độ tối đa.
- Giọng điệu đa dạng, nhịp điệu linh hoạt
Tựa“Trích diễm thi tập”
(Hoàng Đức Lương)
- Xót xa trước lòng tự hào dân tộc bị tổn thương.
- Khiêm tốn, nhún nhường khi nói về mình.
- Các lí do khiến thơ văn không lưu truyền hết ở đời.
- Kết quả: đau xót, tổn thương lòng tự hào dân tộc dẫn đến việc sưu tầm, tuyển chọn, biên soạn để bảo tồn.
- Chất trữ tình hoà quyện chất nghị luận.
Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn
(Ngô Sĩ Liên)
- Cảm phục và ngưỡng mộ sâu sắc đến mức thần thánh hoá.
- Tự hào sâu sắc.
- Giới thiệu lai lịch.
- Trình bày các mối quan hệ làm sáng tỏ chân dung nhân cách, tài năng.
- Sự hiển linh khi mất.
- Lời kể hoà quyện hai yếu tố tự sự và nghị luận.
2.1.3. Ðặc điểm:
Ngữ âm: Có ý thức hướng tới chuẩn mực ngữ âm. Khi phát biểu trong hội nghị hoặc diễn thuyết trong mit tinh, ngữ điệu được xem là phương tiện bổ sung để tăng thêm sức hấp dẫn, lôi cuốn người nghe.
Từ ngữ:
Ðặc điểm nổi bật nhất là sự có mặt của lớp từ chính trị, thuật ngữ khoa học. Đây chính là công cụ riêng của PC chính luận. PC chính luận đòi hỏi khi dùng từ phải luôn luôn tỏ rõ lập trường, quan điểm, chỗ đứng và tình cảm, thái độ của mình.
Ví dụ:
“Xã tắc từ đây vững bền,
Giang sơn từ đây đổi mới.
Kiền khôn bĩ rồi lại thái,
Nhật nguyệt hối rồi lại minh.
Muôn thuở nền thái bình vững chắc,…”
(Đại cáo bình Ngô - Nguyễn Trãi)
Từ ngữ đòi hỏi sự minh xác cao. Ðề tài được đưa ra bàn luận ở PC ngôn ngữ chính luận là những vấn đề thời sự nóng hổi của xã hội cho nên khi cần thiết người viết phải dùng tất cả các lớp từ ngữ có quan hệ đến đề tài này.
Khi cần bày tỏ sự đánh giá tình cảm của mình một cách mạnh mẽ đối với các vấn đề nêu ra, người viết chọn lọc và sử dụng các đơn vị từ khẩu ngữ, bởi đây là lớp từ giàu sắc thái ý nghĩa và sắc thái biểu cảm.
Ví dụ: “…trải qua mấy triều đại lâu dài, dẫu đến những vật bền như đá, như vàng, lại được quỷ thần phù hộ, cũng còn tan nát trôi chìm. Huống chi bản thảo sót lại, tờ giấy mỏng manh để trong cái níp, cái hòm, trải qua mấy lần binh lửa, thì còn giữ mãi thế nào được mà không rách nát tan tành?” (Tựa “Trích diễm thi tập” – Hoàng Đức Lương)
Cú pháp:
Do phải thực hiện chức năng thông báo, chứng minh và tác động nên phong cách chính luận dùng nhiều kiểu câu khác nhau: câu đơn, câu ghép, câu tường thuật, câu nghi vấn, câu cảm thán.
Câu văn chính luận thường dài, có kết cấu tầng bậc làm cho tư tưởng nêu ra được xác định chặt chẽ.
Ðể nhấn mạnh ý tưởng, gây sự chú ý ở người đọc, PC ngôn ngữ chính luận sử dụng nhiều lối nói trùng điệp, phép điệp từ, điệp ngữ, các cách so sánh giàu tính liên tưởng và tương phản để tăng cường độ tập trung thông tin và hiệu quả bình giá, phán xét.
Ví dụ 1:
“Gươm mài đá, đá núi cũng mòn,
Voi uống nước, nước sông phải cạn.
Đánh một trận sạch không kình ngạc,
Đánh hai trận tan tác chim muông…”
(Đại cáo bình Ngô - Nguyễn Trãi)
Ví dụ 2:
“Hiền tài là nguyên khí của quốc gia, nguyên khí thịnh thì thế nước mạnh, rồi lên cao, nguyên khí suy thì thế nước yếu, rồi xuống thấp…”
(Hiền tài là nguyên khí của quốc gia – Thân Nhân Trung)
Tóm lại: việc vận dụng đặc điểm thể loại trong việc tiếp cận và giảng dạy các văn bản nghị luận là phù hợp nhưng đòi hỏi sự linh hoạt và sáng tạo mới tiến hành thiết kế giáo án hiệu quả, phải linh động trong việc kết hợp với các phương pháp khác mới thực sự để lại dấu ấn cho học sinh qua mỗi bài học.
2.2. Vận dụng lịch sử giai đoạn xuất hiện tác phẩm để lí giải.
Với tư cách là một tác phẩm văn học, văn bản nghị luận cũng chịu sự chi phối của điều kiện lịch sử xã hội. Những vấn đề phức tạp của lịch sử xuất hiện thường tác động lớn đến đời sống, số phận con người. Tất cả đều trở thành nguồn cảm hứng để người nghệ sĩ phản ánh, một mặt ghi lại những biến đổi của thời cuộc, mặt khác, bày tỏ chính kiến, quan niệm và cách nhìn nhận, đánh giá của mình. Vì vậy, tác phẩm bao giờ cũng truyền đến người đọc một tư tưởng, một thái độ, thậm chí có tác dụng liên kết xã hội bằng những hành động cụ thể. Phân tích các văn bản nghị luận nhất thiết phải tìm hiểu lịch sử xuất hiện của chúng mới hiểu rõ và lí giải chính xác: Tác phẩm phản ánh vấn đề gì? Phản ánh để làm gì? Phản ánh như thế nào? Tác phẩm có ý nghĩa ra sao với đương thời và hiện nay? Bài học rút ra từ sự phản ánh đó?.v.v…
Ví dụ: Khái quát sơ bộ về lịch sử xuất hiện một số văn bản nghị luận trên như sau:
Tác phẩm
Thời điểm
Xã hội
Đại cáo bình Ngô
(Nguyễn Trãi)
Cuối 1427
- Triều đại Hồ Quý Ly (1400-1407), Triều đại Hậu Trần (1407-1413) với các phong trào khởi nghĩa “Binh áo đỏ” (1410), Lam Sơn (1418).
- Triều đại Lê Sơ (1428-1527).
- Các nhân vật hào kiệt: Lê Lợi (Lê Thái Tổ), Lê Lai, Nguyễn Trãi, Lê Văn An, Lê Văn Linh, Lưu Nhân Chú, Lê Liễu…
Tựa “Trích diễm thi tập”
(Hoàng Đức Lương)
1497
- Triều đại Lê Thánh Tông (1460-1497) có nhiều đóng góp vào đời sống mọi mặt của quốc gia Đại Việt, hoạt động sôi nổi trên nhiều lĩnh vực bởi nhiều tài năng: tư tưởng cao siêu, anh minh quyết đoán, hùng tài đại lược, võ giỏi văn hay, tay không rời sách, từng sáng lập “Hội Tao đàn” gồm 28 tiến sĩ giỏi thơ văn nhất nước thời đó. Lê Thánh Tông là một nhà văn hoá lớn.
- Việc thi cử, giáo dục thời này thịnh đạt nhất trong lịch sử giáo dục và khoa cử thời phong kiến Việt Nam, nhiều công trình biên soạn tầm cỡ xuất hiện: Đại Việt sử kí toàn thư (1479), Thiên Nam dư hạ tập (hơn trăm bài thơ của Nguyễn Trãi cũng được sưu tầm thời này).
Hiền tài là nguyên khí của quốc gia
(Thân Nhân Trung)
1484
Hưng Đạo đại vương Trần Quốc Tuấn
(Ngô Sĩ Liên)
Nhà Trần
- Các đời vua: Trần Thái Tông (1225-1258), Trần Thánh Tông (1258-1278), Trần Nhân Tông (1279-1293), Trần Anh Tông (1293-1314), Minh Tông, Hiến Tông, Dụ Tông, Nghệ Tông, Duệ Tông, Phế Đế, Thuận Tông, Hiếu Đế (1314-1400).
- Ba lần chống quân Mông Nguyên, xuất hiện các nhân tài: Trần Thủ Độ, Trần Quốc Tuấn, Trần Quang Khải, Trần Nhật Duật…
Tóm lại: Hiện tượng văn sử bất phân trong văn học trung đại Việt Nam là cảm quan trong sáng tác nghệ thuật. Vì vậy, việc hiểu tường tận lịch sử là điều kiện rất cần thiết để triển khai văn bản.
2.3. Bám sát nội dung và hình thức văn bản để triển khai.
Tìm hiểu, nghiên cứu bất cứ tác phẩm văn học nào người giảng dạy cũng phải tiến hành trực tiếp trên hai phương diện nội dung và hình thức. Đây là những căn cứ cụ thể và khoa học nhất để người tiếp nhận lĩnh hội tác phẩm. Dưới góc độ lí luận văn học, nội dung và hình thức là hai phạm trù có mối quan hệ chặt chẽ, thống nhất không thể tách rời, tác động qua lại, quy định tính chất tồn tại của nhau. Nếu nội dung tác phẩm cho phép người đọc lí giải câu hỏi: tác phẩm viết về vấn đề gì, mục đích, ý nghĩa, giá trị,… thì hình thức giúp người đọc lí giải tác phẩm viết như thế nào, hiệu quả ra sao, tính thẩm mĩ, khả năng rung cảm và thuyết phục người đọc thế nào,…
Khi bám sát văn bản trên hai phương diện này, cần chỉ ra:
Về mặt nội dung: cần tìm hiểu và nắm đề tài, chủ đề, cảm hứng, hình tượng của tác phẩm, các sự kiện, các chi tiết, tình tiết, biến cố… Xâu chuỗi chúng lại theo những lôgic nhất định giúp người tiếp nhận lĩnh hội được tư tưởng, tình cảm, thái độ, quan điểm, lập trường và giá trị của tác phẩm trên nhiều bình diện.
Về mặt hình thức: cần tìm hiểu các hình thức diễn đạt và các phương tiện diễn đạt như hệ thống ngôn từ (với các đặc tính: chính xác, biểu cảm, hàm súc, hình tượng; các lớp từ, các loại từ…), hệ thống biện pháp nghệ thuật, cách thức lập luận, nhịp điệu, giọng điệu, kết cấu. Mục đích cuối cùng là chỉ ra tác dụng của chúng trong việc biểu hiện tư tưởng, tình cảm, thái độ…của người tạo lập, sức thuyết phục của tác phẩm, qua đó mà đánh giá được tài năng và tấm lòng của người tạo lập.
Hơn bất cứ hoạt động nào, việc phân tích trực tiếp văn bản đòi hòi người giáo viên phải có năng lực thực sự, trình độ kiến thức nhiều mặt, phân tích có nghệ thuật,… mới giải mã được các lớp ý nghĩa một cách toàn diện, thấu đáo. Bất cứ một vấn đề nào, nếu được lí giải một cách sâu sắc, thấu tình đạt lí sẽ thuyết phục được người đọc, từ đó mới xuất hiện những rung cảm thật sự để mà yêu mến, quý trọng. Tất nhiên, vấn đề sẽ có sức sống dài lâu trong tâm trí người tiếp nhận, thậm chí có thể hoá thân trong cách ứng xử, cảm quan người tiếp nhận.
2.4. Gia tăng chất “văn học” để giảm bớt tinh chất “lí luận khô khan, giáo huấn” của các văn bản nghị luận.
“Chất văn học” ở đây nên hiểu là chất nghệ thuật. Mà thực chất của nghệ thuật là tính trữ tình. Nghệ thuật thường được tạo lập và tác động đến người tiếp nhận thông qua con đường tình cảm. Tình cảm có thể “chuyển hoá”, “mềm hoá” mọi vấn đề để người tiếp nhận lĩnh hội một cách tự nguyện như một nhu cầu tinh thần thực sự. Đây là yêu cầu thiết yếu của giáo viên ngay cả khi dạy những văn bản nghệ thuật. Vì thế, đòi hỏi người giáo viên Ngữ văn phải có những phẩm chất, tư chất nghệ thuật thật sự từ sự học tập, rèn luyện thường xuyên mới có được.
Để “gia tăng chất văn học” cho bài dạy các văn bản nghệ thuật, người dạy có thể sử dụng nhiều cách: kể chuyện giai thoại, kể chuyện danh nhân, kể chuyện lịch sử,… một cách lôi cuốn, hấp dẫn, đúng lúc, đúng chỗ, vừa kể vừa kèm theo những lời bình luận sâu sắc, thấm thía ứng với một khía cạnh nào đó của bài học; vận dụng những hiểu biết về văn hoá, nghệ thuật mỗi giai đoạn cũng là cách phụ hoạ cho bài giảng thêm phong phú, sinh động; dùng những bài thơ, câu chuyện có tính chất triết lí phù hợp với từng chi tiết của văn bản; cùng với giọng văn, khẩu khí, động tác, cử chỉ, điệu bộ là cách diễn đạt lôi cuốn…luôn luôn khiến bài giảng trở nên nhẹ nhàng, lan toả mà thấm sâu. (Tất nhiên, cần chú ý tính cân đối về thời gian quy định cho mỗi bài).
2
File đính kèm:
- SKKN NCKHSPUD GIANG DAY VAN BAN NGHI LUAN TRONG CHUONGTRINH NGU VAN LOP 10.doc